Bản án 202/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN - TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 202/2019/HS-ST NGÀY 26/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 205/2019/TLST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 207/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Nông Hồng T, sinh ngày 16/11/1960 tại Lạng Sơn.

Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở hiện nay: Phố C, phường C, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 10/10; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nông Văn N, sinh năm 1936 (chết năm 2010) và bà Đinh Thị P, sinh năm 1936 (chết năm 2011); vợ: Bế Thị T; con: 03 con, con lớn nhất sinh năm 1987, con nhỏ nhất sinh năm 1992; tiền sự: Không; tiền án: Không. Danh chỉ bản số 405 lập ngày 24/9/2019. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 20/9/2019, tạm giam từ ngày 23/9/2019 cho đến nay. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Lê Thị O, sinh năm 1983; Nơi cư trú: Thôn H, xã H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

Người chứng kiến: Ông Hoàng Quang K. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 11 giờ 00 phút ngày 20/9/2019, tại khu vực đường B, phường V, thành phố L, tổ công tác Công an thành phố Lạng Sơn phát hiện bắt quả tang Nông Hồng T có biểu hiện tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ của Nông Hồng T 01 vỏ hộp bao diêm Thống Nhất màu vàng, bên trong có 08 gói giấy nhỏ chứa chất bột màu trắng Nông Hồng T khai nhận là ma túy.

Bản kết luận giám định số 333/KL-PC09 ngày 21/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng trong 08 gói giấy gửi giám định là chất ma túy Heroine, có khối lượng 0,402 gam (đã trừ bì).

Tại bản Cáo trạng số 203/CT-VKSTP, ngày 11/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Nông Hồng T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Nông Hồng T khai nhận: Bị cáo làm nghề xe ôm chở khách, nghiện chất ma túy từ năm 2011 đến nay, thường tàng trữ ma túy để sử dụng. Khoảng 08 giờ ngày 20/9/2019, do chưa có khách nên bị cáo đi bộ tìm mua ma túy heroine để sử dụng. Bị cáo gặp và mua ma túy với 01 người phụ nữ không quen biết, người này đưa cho bị cáo một vỏ bao diêm Thống Nhất, bên trong có 05 gói giấy nhỏ màu trắng có dòng kẻ, 02 gói giấy nhỏ được bọc ngoài bằng nilon màu hồng, 01 gói giấy nhỏ được bọc bằng nilon màu xanh, tổng cộng có 08 gói nhỏ. Bị cáo cất hộp bao diêm đựng 08 gói ma túy vừa mua được vào túi nilon màu xanh cài sẵn ở giá để hàng tại yếm xe. Sau đó, bị cáo chở khách đến bến xe B rồi quay lại. Khi đi đến khu vực trước cổng khách sạn H đường B thuộc phường V, thành phố L thì bị phát hiện, bắt giữ.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Lê Thị O vắng mặt tại phiên tòa, lời khai có trong hồ sơ vụ án và đơn xin xét xử vắng mặt của chị Lê Thị O thể hiện: Chị là chủ sở hữu chiếc xe mô tô nhãn hiệu DETECH ESPERO màu sơn đỏ, biển kiểm soát 12K2-93xx. Khoảng đầu năm 2019, chị cho bị cáo Nông Hồng T mượn chiếc xe này để làm phương tiện đi lại. Việc bị cáo sử dụng xe của chị để đi mua ma túy, chị không được biết. Do chiếc xe đã cũ và chị cũng không có nhu cầu sử dụng.

Người chứng kiến ông Hoàng Quang K vắng mặt tại phiên tòa, lời khai có trong hồ sơ vụ án thể hiện ông được chứng kiến sự việc lực lượng Công an bắt quả tang và thu giữ tang vật đúng như bị cáo khai nhận.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nông Hồng T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nông Hồng T từ 18 đến 24 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung. Về xử lý vật chứng, đề nghị áp dụng điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đã niêm phong chất ma túy hoàn lại sau giám định và 01 vỏ bao diêm Thống Nhất màu vàng; trả lại cho chị Lê Thị O 01 xe mô tô nhãn hiệu DETECH ESPERO màu sơn đỏ, biển kiểm soát 12K2-93xx; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu COOLPAD-F116 màu xanh-đen; bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận tại phiên tòa. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo Nông Hồng T tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên toà, có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 20/9/2019, tại khu vực đường B, phường V, thành phố L bị cáo Nông Hồng T đã có hành vi tàng trữ 0,402 gam ma túy Heroine để sử dụng. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn truy tố bị cáo Nông Hồng T về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương, gây bất bình trong xã hội. Bị cáo nhận thức rõ ma túy là chất gây nghiện, có tác hại nghiêm trọng đến sức khỏe con người, là nguyên nhân làm phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện.

[3] Về nhân thân: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, chưa có tiền án, tiền sự.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về hình phạt chính: Đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, hậu quả thiệt hại gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trên cơ sở đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp. Hội đồng xét xử xem xét, quyết định một mức án tương xứng với hành vi phạm tội đó là cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để bị cáo có thời gian tập trung cải tạo và trở thành công dân có ích cho gia đình, xã hội, đồng thời cũng đảm bảo tính chất răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

[7] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền do bị cáo không có việc làm ổn định, không có thu nhập và tài sản riêng theo biên bản xác minh ngày 03/10/2019 của Cơ quan điều tra công an thành phố Lạng Sơn.

[8] Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đối với 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật Heroine sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành và 01 vỏ bao diêm Thống Nhất màu vàng là vật không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy; đối với 01 xe mô tô hiệu DETECH ESPERO màu sơn đỏ, biển kiểm soát 12K2-9395 là tài sản hợp pháp của chị Lê Thị O, việc bị cáo sử dụng xe để đi mua ma túy, chị không được biết nên cần trả lại xe cho chị Lê Thị O; đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu COOLPAD-F116 màu xanh-đen không sử dụng vào việc liên lạc mua ma túy nên xác định không liên quan đến việc phạm tội, cần trả lại cho bị cáo.

[9] Đối với người phụ nữ bán ma túy cho bị cáo tại khu vực cổng chợ Đ, đường N, phường V, bị cáo khai không biết tên tuổi, địa chỉ của phụ nữ đó nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xem xét xử lý trong vụ án này. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[10] Về hành vi, quyết định tố tụng, việc thu thập tài liệu, chứng cứ của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[11] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

[12] Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Nông Hồng T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Nông Hồng T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 20/9/2018.

2. Xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy Heroine đựng trong 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật sau giám định và 01 vỏ hộp bao diêm Thống Nhất màu vàng.

- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu COOLPAD-F116 màu xanh-đen, số IMEI: 862397040622380, cũ, đã qua sử dụng - Trả lại cho chị Lê Thị O 01 xe mô tô hiệu DETECH ESPERO, màu sơn đỏ, biển kiểm soát 12K2-9395, số khung RPEWCH1PE7A009958, số máy VSEJQ152FMH009958, xe cũ đã qua sử dụng.

(Vật chứng trên đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/11/2019).

3. Án phí: Bị cáo Nông Hồng T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm, sung ngân sách Nhà Nước.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 202/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:202/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về