Bản án 20/2021/HS-ST ngày 23/04/2021 về tội cố ý làm hư hỏng tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯ M’GAR, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 20/2021/HS-ST NGÀY 23/04/2021 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 4 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện CưM’gar, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự sơ thẩm thụ lý số: 19/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2021/QĐXXST-HS ngày 09/4/2021 đối với bị cáo:

Đặng Công L, sinh năm 19xx, tại tỉnh Đ.

Nơi cư trú: Tổ dân phố xx, thị trấn Q, huyện C, tỉnh Đ; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đặng Công Đ, sinh năm 19xx và bà Trần Thị T, sinh năm 19xx. Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú - có mặt.

- Bị hại:

1. Chị Nguyễn Thị Giang Ch, sinh năm 19xx (có mặt).

2. Anh Trần Hồng H, sinh năm 19xx (có mặt).

Cùng địa chỉ: Tổ dân phố T, thị trấn E, huyện C, tỉnh Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có mâu thuẫn với nhau trong lúc hát karaoke tại quán karaoke H tại Buôn A, xã C, huyện C, tỉnh Đ nên vào khoảng 22h ngày 31/12/2020, Trần Văn H (sinh năm: 19xx, trú tại thị trấn Q, huyện C, tỉnh Đ) đi về nhà lấy 01 con dao (loại mã tấu) dài 66cm, 01 con dao Thái lan rồi đi sang nhà Nguyễn Thành Đ (sinh năm:

19xx, trú tại tổ dân phố x, thị trấn Q, huyện C) ở đối diện nhà H để nhờ Đ đi đánh nhóm của Hồ Văn T (sinh năm: 19xx, trú tại tổ dân phố x, thị trấn Q, huyện C) thì Đ đồng ý, H đưa con dao (loại mã tấu) cho Đ cầm, còn con dao Thái lan H để trong túi quần Jean phía sau bên phải. Sau đó, H điều khiển xe ô tô biển số: xxA - xxx.xx chở Đ và Võ Văn Q (sinh năm: 20xx, trú tại thị trấn Q, huyện C, tỉnh Đ) đi đến quán karaoke H, trên đường đi H nói với Đ “Tý nữa tao đánh ai thì mày đánh người đó”. Khi đến đầu đường Nguyễn Chí Th giao nhau với đường Y Ng thì H dừng xe ô tô lại, đồng thời nói Q tí nữa lên ngồi ở ghế tài, đóng cửa xe lại, nếu H và Đ bị đánh hoặc có chuyện gì thì mở cửa xe cho H và Đ lên điều khiển xe bỏ chạy thì Q đồng ý. Sau đó, H cầm dao Thái lan trên tay phải, Đ cầm mã tấu trên tay trái đi ra khỏi xe ô tô, còn Q lên ghế tài ngồi chờ. H và Đ đi đến trước quán karaoke H, thấy nhóm của T và anh H A(sinh năm: 19xx, trú tại tổ dân phố Q, thị trấn E, huyện C) đang đứng trước đầu xe ô tô biển số: xxA - xxx.xx của anh Trần Hồng H (sinh năm: 19xx, trú tại tổ dân phố T, thị trấn E, huyện C) H cho rằng anh H A là người trong nhóm của T nên H cầm dao Thái Lan trên tay phải chạy đến để đâm vào người H A nhưng không trúng, H A thấy vậy bỏ chạy ra bên hông xe của H, H tiếp tục cầm dao đuổi theo H A thì H A bị ngã xuống lề đường, khi H chạy đến thì bị H A dùng chân đạp trúng vào chân nên làm H ngã xuống lề đường. Lúc này, Đ cầm dao mã tấu trên tay trái chạy đến chém về phía người H A nhưng không trúng, H A đứng dậy bỏ chạy về hướng đường Nguyễn Chí Th thì H và Đ tiếp tục đuổi theo, H đuổi theo được khoảng 20m thì quay lại còn Đ tiếp tục đuổi theo H A. Khi H A chạy đến nhà anh Nguyễn Thượng L (sinh năm: 19xx, trú tại tổ dân phố x, thị trấn Q, huyện C) thấy cửa mở nên H A chạy vào nhà anh L và dùng tay kéo cánh cửa vào thì Đ chạy đến cầm dao mã tấu bằng tay trái chém từ trên xuống giữa khe hai cánh cửa sắt và trúng vào cung mày phải của H A gây thương tích. Lúc này, con dao mã tấu của Đ bị kẹt giữa hai cánh cửa sắt nên Đ rút dao mã tấu ra rồi quay lại quán karaoke H.

Lúc này, Đặng Công L (sinh năm: 19xx, trú tại thị trấn Q, huyện C, tỉnh Đ; cùng nhóm với Trần Văn H) đang ở vỉa hè đường, trước nhà anh L thì thấy H điều khiển xe ô tô đi từ đường Nguyễn Chí Th về đường Y Ng, L nghĩ H quay lại là để đuổi đánh H nên L đã nhặt 01 cục đá kích thước (15x15x15)cm ở bên cạnh gốc cây trước nhà anh L cầm trên tay phải, khi anh H điều khiển xe đến đối diện, cách L khoảng 07m thì L ném cục đá trên vào xe của H trúng vào phần hông xe (phía trước bên tài) gây hư hỏng. Sau đó H, Đ, L đi về nhà ngủ.

Tại bản kết luận Pháp y về thương tích số: 92/TgT-TTPY, ngày 02/01/2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh Đắk Lắk đối với Hoàng A, kết luận: Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 3% (ba phần trăm); Vật tác động: Vật tày, cứng và vật sắc.

Tại kết luận định giá tài sản số: 01/KL-HĐĐGTS, ngày 01/01/2021, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Cư M’gar, kết luận: Xe ô tô biển số: xxA - xxx.xx, nhãn hiệu: Hyundai Tucson, màu sơn: Đen, loại xe ô tô con, bị hư hỏng một số phụ tùng như đã miêu tả trong biên bản khám phương tiện trị giá là 4.700.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 24/CT-VKS ngày 26/3/2021, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư M’gar truy tố bị cáo Đặng Công L về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 178 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư M’gar giữ nguyên nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: tuyên bố bị cáo Đặng Công L phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 178; điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Đặng Công L từ 06 tháng đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng.

Về xử lý vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử, chấp nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cư M’gar xử lý vật chứng trả 01 xe ô tô biển số: xxA - xxx.xx, cho anh Trần Hồng H và chị Nguyễn Thị Giang Ch là chủ sở hữu hợp pháp; Còn đối với vật chứng là cục đá có kích thước (15x15x15)cm mà bị cáo L dùng ném trúng xe ô tô của anh H và chị Ch Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cư M’gar không thu giữ được đề nghị Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

Về dân sự: Áp dụng Điều 48 của Bộ luật hình sự 2015; các Điều 584, 585, 586, 589 của Bộ luật dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận gia đình bị cáo đã bồi thường cho bị hại số tiền 4.000.000 đồng.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo được hưởng án treo.

Bị hại anh Trần Hồng H và chị Nguyễn Thị Giang Ch không có ý kiến tranh luận gì với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát. Anh H và chị Ch chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, còn về trách nhiệm dân sự không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện CưM’gar, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư M’gar, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với kết quả tranh luận tại phiên tòa, đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 22 giờ 00 phút ngày 31/12/2020, tại tổ dân phố 5, thị trấn Quảng Phú, huyện Cư M’gar bị cáo Đặng Công L đã dùng 01 cục đá kích thước (15x15x15)cm ném vào xe ô tô biển số: xxA - xxx.xx của chị Nguyễn Thị Giang Ch và anh Trần Hồng H trúng vào phần hông xe gây hư hỏng thiệt hại 4.700.000đồng (bốn triệu bảy trăm nghìn đồng).

Hành vi của bị cáo Đặng Công L đã phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo khoản 1 Điều 178 của Bộ luật Hình sự.

Tại khoản 1 Điều 178 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm...”

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu đối với tài sản của bị hại mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an tại địa phương, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Bị cáo nhận thức được tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi làm hư hỏng tài sản trái pháp luật đều bị trừng trị nghiêm khắc, nhưng do ý thức coi thường pháp luật, bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới đủ trừng trị, cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân biết chấp hành tốt pháp luật đồng thời mới đủ tác dụng răn đe, phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

[4] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy rằng:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, phạm tội gây thiệt hại không lớn, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho bị hại và được bị hại làm đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt nên bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

[6] Với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo như đã nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt, có nơi cư trú cụ thể rõ ràng, ngoài lần phạm tội này bị cáo chưa bị xử lý vi phạm về một hành vi nào khác do đó không cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cần áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng án treo, tạo điều kiện cho bị cáo cải tạo tại địa phương cũng đảm bảo giáo dục riêng, phòng ngừa tội phạm chung.

[7] Đối với hành vi gây thương tích cho anh H A của Trần Văn H, Nguyễn Thành Đ thì ngày 02/3/2021, anh H A đã có đơn bãi nại và rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự không yêu cầu gì thêm về hình sự và dân sự. Nên ngày 08/3/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện CưM’gar đã ra Quyết định đình chỉ vụ án đối với Trần Văn H, Nguyễn Thành Đ, về tội Cố ý gây thương tích và ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trên là phù hợp.

Đối với hành vi của Võ Văn Q có dấu hiệu đồng phạm về tội Cố ý gây thương tích cho anh Hoàng A. Tuy nhiên ngày 07/01/2021, Anh Hoàng A đã có đơn không yêu cầu khởi tố hình sự đối với Võ Văn Q nên ngày 08/3/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Cư M’gar đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trên là phù hợp.

[8] Xét quan điểm của Đại diện viện kiểm sát tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Đặng Công L. Đề nghị về mức hình phạt và trách nhiệm dân sự là có căn cứ, cần chấp nhận.

[9] Về xử lý vật chứng: Chấp nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cư M’gar xử lý vật chứng trả lại 01 xe ô tô biển số xxA - xxx.xx cho anh Trần Hồng H và chị Nguyễn Thị Giang Ch là chủ sở hữu hợp pháp. Còn đối với vật chứng cục đá có kích thước (15x15x15)cm mà bị cáo L dùng ném trúng xe ô tô của anh H và chị Ch Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cư M’gar không thu giữ được đề nghị Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận việc bị cáo đã tác động gia đình tự nguyện bồi thường cho bị hại anh Trần Hồng H và chị Nguyễn Thị Giang Ch số tiền 4.000.000 đồng.

[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Đặng Công L phạm tội: “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.

2. Điều luật và mức hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 178; điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Đặng Công L 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao cbị cáo Đặng Công L cho Ủy ban nhân dân thị trấn Q, huyện C, tỉnh Đ giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Các biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 46, Điều 47, Điều 48 của Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 584, Điều 585, Điều 590 của Bộ luật dân sự.

Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận việc bị cáo đã tác động gia đình tự nguyện bồi thường cho bị hại anh Trần Hồng H và chị Nguyễn Thị Giang Ch số tiền 4.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Chấp nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cư M’gar xử lý vật chứng trả lại 01 xe ô tô biển số xxA - xxx.xx cho anh Trần Hồng H và chị Nguyễn Thị Giang Ch là chủ sở hữu hợp pháp.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Đặng Công L phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2021/HS-ST ngày 23/04/2021 về tội cố ý làm hư hỏng tài sản

Số hiệu:20/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cư M'gar - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về