Bản án 03/2018/HSST ngày 26/01/2018 cố ý làm hư hỏng tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ GIÁO, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 03/2018/HSST NGÀY 26/01/2018 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Phú Giáo, tinh Binh Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 72/2017/TLST-HS ngày 15/12/2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2018/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 01 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Hoàng Thế H, sinh ngày 08 tháng 11 năm 1994 tại tỉnh Hải Dương; nơi cư trú: Thôn V, xã T, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dươngg; tạm trú: Phường P, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Thế T1, sinh năm 1972 và bà Phạm Thị M, sinh năm 1969; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam từ ngày 27/9/2017 cho đến nay; có mặt.

2. Họ và tên: Trịnh Xuân H1, sinh ngày năm 1995 tại tỉnh Hải D1; nơi cư trú: Thôn V, xã T, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương; tạm trú: Phường P, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trịnh Xuân N, sinh năm 1962 và bà Lê Thị D, sinh năm 1964; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam từ ngày 27/9/2017 cho đến nay; có mặt.

- Người bị hại: Ông Lê Đức T2, sinh năm 1986; nơi cư trú: Thôn T3, xã T, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương; tạm trú: 2/7, ấp 6, xã Đ, huyện Hóc Môn,

Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Lê Đình T4, sinh năm 1995; nơi cư trú: Thôn H2, xã T, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Phú Giáo; có mặt.

2. Ông Cao Minh T5, sinh năm 1974; nơi cư trú: Số 48, khu phố T6, phường A, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

3. Bà Đinh Thị Diệu L, sinh năm 1993; nơi cư trú: Thôn C, xã C1, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương; vắng mặt.

4. Ông Nguyễn Văn H3, sinh năm 1982; nơi cư trú: Thôn A1, xã H4, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương; vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Ông Lê Quý D1, sinh năm 1986; nơi cư trú: Thôn H2, xã T, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương; tạm trú: Khu phố K, phường TP, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

2. Ông Quý T7, sinh năm 1985; nơi cư trú: Khu phố 6, thị trấn P1, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

3. Ông Lê Quý Q, sinh năm 1997; nơi cư trú: Thôn H2, xã T, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương; tạm trú: phường P, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 24/9/2017, Lê Quý Q đến huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương để thu tiền nợ thì bị hai đối tượng (không rõ nhân thân, lai lịch) dùng cây đánh vào lưng Quyền. Quyền về nhà trọ số 217/22/18 khu phố 9, phường P, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương nói Lê Đình T4 biết và nghi ngờ Lê Đức T2, Lê Quý D1 thuê người đánh Q. T nói với Hoàng Thế H, Trịnh Xuân H1, Phạm Văn H5, Trịnh Xuân V1, Trịnh Xuân N1, D1 Văn Q tìm T2, D1 đánh trả thù. T chuẩn bị một dao quắm dài khoảng 80cm, cán dao bằng gỗ, lưỡi dao bằng kim loại; 03 ống tuýp sắt mỗi ống dài khoảng 70cm đường kính 1,5cm bỏ vào trong bao tải. Sau đó T dẫn H5, Q đến cửa hàng cho thuê xe ô tô do anh Cao Minh T5 ở phường A, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương làm chủ thuê 02 chiếc xe ô tô INNOVA biển số 61A-112.88 và 61A-160.43.

Sáng ngày 25/9/2017, T nói H, Q, H1, H5, V1, Q, N1 cùng đi với T đến huyện Phú Giáo tìm T2, D1. Q điều khiển xe ô tô biển số 61A-112.88 chở Q, V1, N1 còn H5 điều khiển xe ô tô biển số 61A-160.43 chở T, H, H1, phía sau xe ô tô T bỏ bao tải đựng dao quắm, ống tuýp sắt. Khi đến xã A1, huyện Phú Giáo, nhóm của T không gặp T2, D1 nên quay về thị trấn P, huyện Phú Giáo. Khi đến đoạn đường ĐT 741 thuộc khu phố 6, thị trấn P, huyện Phú Giáo, nhóm của T thấy T2 đang điều khiển xe mô tô biển số 34M1-027.94 chở D1 đi hướng cùng chiều, H5 điều khiển xe ô tô chặn đầu xe của T2, Q điều khiển xe dừng phía trước xe của H5 nhưng Q, Q, V1, N1 không xuống xe. T xuống xe mở cốp xe cầm 01 dao quắm, H cầm một cây tuýp sắt, H1 cầm một cây tuýp sắt đuổi đánh T2, D1. T2, D1 dựng xe bên lề đường bỏ chạy bộ ngược về hướng xã A, huyện Phú Giáo, T2 chạy vào nhà anh Quý T7 (cách chỗ dựng xe mô tô 46m), D1 chạy vào lô cao su bên hông nhà anh T7. T đuổi theo T2 đến trước cổng nhà anh T7 thì anh T7 đóng cổng lại nên T không đuổi chém được T2, sau đó T đi bộ quay lại nơi dừng xe ô tô. H, H1 không đuổi được T2, D1 nên quay lại chỗ dựng xe mô tô của T2, H cầm tuýp sắt đập trúng vào cụm đèn pha xe mô tô làm bể đèn, H1 cầm tuýp sắt đập trúng vào cụm đèn phía sau xe mô tô làm bể đèn, H tiếp tục cầm tuýp sắt đập hai cái trúng vào đầu và gương xe mô tô làm hư hỏng, H1 tiếp tục cầm tuýp sắt đập trúng vào thân xe làm hư hỏng. T2 đứng trong sân nhà anh T7 nhìn qua hàng rào B40 thấy T đang cầm dao đi bộ về hướng xe mô tô (cách xe mô tô của T2 khoảng 5m), H đứng ở đầu xe mô tô, H5 đứng ở đuôi xe mô tô cầm hung khí (không rõ hung khí gì) đập vào xe và dùng chân đạp vào xe của T2 ngã vào lề đường. Thấy có nhiều người dân chạy ra nên nhóm của H lên xe ô tô bỏ chạy về hướng thị trấn P, huyện Phú Giáo và ném bỏ hung khí trên đường bỏ chạy.

Tại bản Cáo trạng số 72/QĐ-KSĐT, ngày 14/12/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo truy tố các bị cáo Hoàng Thế H, Trịnh Xuân H1 về tội “cố ý làm hư hỏng tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 143 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo tham gia phiên toà trình bày lời luận tội trong đó có nội dung vẫn giữ nguyên quyết định Cáo trạng đã truy tố, đánh giá tính chất mức độ, hâu qua hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra và cac tình tiết tăng năng, giảm nhẹ trach nhiêm hinh sư, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Hoàng Thế H mức hình phạt từ 04 đến 05 tháng tù; bị cáo Trịnh Xuân H1 mức hình phạt từ 04 đến 05 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại yêu cầu các bị cáo bồi thường chi phí sửa chữa xe mô tô 34M1-02794 với số tiền 4.000.000 đồng được khấu trừ số tiền 4.000.000 đồng các bị cáo đã nộp để khắc phục hậu quả tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Giáo, người bị hại không yêu cầu các bị cáo tiếp tục bồi thường nên không xem xét.

Tại phiên tòa, các bị cáo H và H1 khai do đuổi đánh người bị hại không được nên H và H1 đã cầm cây tuýp sắt đập trúng vào xe mô tô biển số 34M1-02794 làm hư hỏng. Các bị cáo thống nhất với kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản, tội danh và mức hình phạt của Viện kiểm sát đề nghị và không có ý kiến khác.

Người bị hại ông Lê Đức T2 có đơn xin xét xử vắng mặt, trong đơn ông T2 xác định bị cáo H và H1 là người làm hư hỏng tài sản của ông, yêu cầu các bị cáo liên đới bồi thường số tiền 4.000.000 đồng, về trách nhiệm hình sự yêu cầu giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo, ngoài ra không có yêu cầu khác.

Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Đình T4 trình bày chỉ liên quan đến vụ cố ý gây thương tích, về hành vi làm hư hỏng tài sản với người bị hại trong vụ án thì không có liên quan và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Cao Minh T5 có đơn xin xét xử vắng mặt; trong đơn thể hiện đã nhận lại xe nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đinh Thị Diệu L có đơn xin vắng mặt, trong đơn thể hiện trước đây có bán chiếc xe mô tô 34M1-027.94 cho Nguyễn Văn H3 nhưng chưa sang tên, việc mua bán đã xong nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn H3 có đơn xin vắng mặt và trình bày trước đây có mua chiếc xe mô tô 34M-027.94 của bà Đinh Thị Diệu L và đã bán cho ông Lê Đức T2 nhưng chưa sang tên, việc mua bán đã xong nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Người làm chứng ông Lê Quý D1 trình bày: Ngày 27/9/2017 bị Lê Đình T4 đuổi đánh nhưng không gây thương tích, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Người làm chứng ông Lê Quý Q trình bày: Ngày 27/9/2017, chứng kiến việc đuổi đánh giữa Lê Đình T4 và người bị hại, ngoài ra không biết gì khác.

Lời nói sau cùng của các bị cáo Hoàng Thế H, Trịnh Xuân H1: Các bị cáo đã vi phạm pháp luật, các bị cáo hối hận về hành vi phạm tội, mong muốn Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Hoàng Thế H, Trịnh Xuân H1 khai nhận vào ngày 25/9/2017, do nghi ngờ nhóm của người bị hại Lê Đức T2 đánh trước đó nên Hoàng Thế H và Trịnh Xuân H1 đã có hành vi dùng cây tuýp sắt đập xe mô tô 34M1-027.94 làm hư hỏng. Căn cứ Kết luân định giá tài sản ngày 27/9/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Phú Giáo xác định tài sản bị thiệt hại của xe mô tô hiệu Yamaha Exciter biển số 34M1-027.94 cần sửa chữa các bộ phận sau: 01 áo xe có giá 2.400.000 đồng, 01 tem có giá 1.110.000 đồng, 01 cụm đèn hậu có giá 980.000 đồng, 01 cụm đèn pha có giá 220.000 đồng, 01 cặp kính xe có giá 90.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị thiệt hại là 4.800.000 đồng.

Hành vi của các bị cáo Hoàng Thế H, Trịnh Xuân H1 sử dụng ống tuýp sắt đập vào xe mô tô của người bị hại Lê Đức T2 gây thiệt hại 4.800.000 đồng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 143 của Bộ luật Hình sự.

Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo truy tố các bị cáo Hoàng Thế H, Trịnh Xuân H1 về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 143 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội; nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo:

Hành vi của các bị cáo dùng cây tuýp sắt đập vào xe mô tô của người bị hại Lê Đức T2 là nguy hiểm cho xã hội. Về nhận thức, các bị cáo biết việc cố ý làm hư hỏng tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của người khác là vi phạm pháp luật nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Các bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 của Bộ luật Hình sự. Do đó, hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 143 của Bộ luật Hình sự.

Vụ án mang tính chất đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn cùng nhau thực hiện tội phạm, các bị cáo là người trực tiếp gây thiệt hại đến tài sản của người bị hại; do đó, khi quyết định hình phạt sẽ cụ thể hóa trách nhiệm hình sự của từng bị cáo.

Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết về nhân thân, tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo:

Về nhân thân: Các bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đã bồi thường thiệt hại, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cai, người bị hại đề nghị giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo theo quy định tại các điểm b, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự.

Do các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ (khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ) theo quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự, có nhân thân tốt, thời gian tạm giam cũng đủ răn đe, giáo dục các bị cáo nhằm thể hiện chính sách khoan hồng của nhà nước đối với người phạm tội lần đầu nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự để quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của điều luật đối với các bị cáo.

Đối với Lê Đình T4 rủ Hoàng Thế H, Trịnh Xuân H1, H5, Trịnh Xuân V1, Trịnh Xuân N1, D1 Văn Q, Lê Quý Q để gây thương tích cho T2, D1 nhưng không đuổi chém được T2, D1. Tuy nhiên, T không có hành vi dùng dao quắm đập phá xe mô tô của T2 và không bàn bạc cùng H, H1, H5 đập xe của T2 nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo không đề cập xử lý, Viện kiểm sát không đặt ra xem xét là phù hợp quy định pháp luật.

Đối với H5 có hành vi dùng hung khí đập vào xe mô tô của T2 theo lời khai của T2. Hiện tại H5 đã bỏ đi khỏi địa phương, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Đối với Lê Quý Q không đập phá xe mô tô của T2 và không bàn bạc cùng H, H1 đập xe của T2 nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo không đề cập xử lý, Viện kiểm sát không đặt ra xem xét là phù hợp quy định pháp luật.

Đối với Trịnh Xuân V1, Trịnh Xuân N1, D1 Văn Q đã bỏ đi khỏi địa phương, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Xét ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa về tội danh, điều khoản, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt đối với các bị cáo là phù hợp, có căn cứ chấp nhận.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại yêu cầu các bị cáo bồi thường chi phí sửa chữa xe mô tô 34M1-02794 với số tiền 4.000.000 đồng. Các bị cáo đã nộp số tiền 4.000.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Giáo theo biên lai thu tiền số 06909 ngày 15/12/2017 để bồi thường cho người bị hại. Người bị hại không yêu cầu các bị cáo tiếp tục bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về xử lý vật chứng: Các vật chứng đã trả lại cho người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nên không xem xét.

[6] Về án phí hinh sư sơ thẩm: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 143; Điều 46; Điều 47; Điều 53 của Bộ luật Hình sự

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Hoàng Thế H, Trịnh Xuân H1 phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.

2. Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 143; các điểm b, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 53 của Bộ luật Hình sự;

- Xử phạt bị cáo Hoàng Thế H 04 (bốn) tháng 15 (mười lăm) ngày tù, thời hạn tù được tính từ ngày 27/9/2017.

- Xử phạt bị cáo Trịnh Xuân H1 04 (bốn) tháng 15 (mười lăm) ngày tù, thời hạn tù được tính từ ngày 27/9/2017.

3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng các Điều 584, 587, 589 của Bộ luật Dân sự: Buộc các bị cáo phải liên đới bồi thường chi phí sửa chữa xe mô tô 34M1-02794 cho người bị hại Lê Đức T2 với số tiền 4.000.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền 4.000.000 đồng các bị cáo đã nộp theo biên lai thu tiền số 06909 ngày 15/12/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Giáo.

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc mỗi bị cáo Hoàng Thế H, Trịnh Xuân H1 phải nôp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng). Các bị cáo, ngươi co quyền lơi, nghia vu liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày Tòa tuyên án.

Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng măt tai phiên toa đươc quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhân đươc ban an cua Tòa án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

795
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2018/HSST ngày 26/01/2018 cố ý làm hư hỏng tài sản

Số hiệu:03/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Giáo - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về