Bản án 20/2020/HS-ST ngày 21/08/2020 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 20/2020/HS-ST NGÀY 21/08/2020 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 21 Tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 19/2020/TLST-HS ngày 16 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2020/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo: N N P, sinh ngày 09-7-2001 tại: Xã Đ H C, huyện C P, tỉnh An Giang; Nơi cư trú: Ấp T Đ, xã T L, huyện T B, tỉnh An Giang; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông N V T và bà H T P; Tiền án: Không; Tiền sự: Không;

Nhân thân: không; Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 04 ngày 21-4-2020 từ ngày 21-4- 2020 cho đến ngày 21-10-2020.

Bị cáo có mặt tại phiên toà.

-Bị hại: Ông N Q H, sinh năm 1948 – Chết ngày 22-02-2020 Nơi cư trú: Ấp S A, xã N T S, huyện H Đ, tỉnh Kiên Giang.

Người đại diện hợp pháp của bị hại: Chị N T T T, sinh ngày 03-12-1994 (vắng mặt) ĐKHKTT: Ấp S A, xã N T S, huyện H Đ, tỉnh Kiên Giang.

Tạm trú: Tổ 3, ấp V L, xã V B, huyện C T, tỉnh An Giang.

-Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà P T T, sinh năm 1970 (vắng mặt) Nơi cư trú: Ấp V T, xã V A, huyện C T, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

a)Về hành vi phạm tội của bị cáo:

khoảng 17 giờ 30 phút, ngày 21-02-2020, N N P sau khi tan ca làm việc tại Công ty LUAN thuộc khu công nghiệp B H; Phát điều khiển xe gắn máy biển số 67AB – 053.51 chạy trên đường Tỉnh lộ 941 theo hướng Lộ tẻ – T T. Khi đến khu vực thuộc Tổ 3, ấp V L, xã V B, huyện C T, tỉnh An Giang; P ngủ gật, để xe chạy lấn vào phần lề đường bên phải theo chiều xe chạy; đụng và gây tai nạn với ông N Q H đang đi bộ cặp lề phải cùng chiều phía trước. Hậu quả ông H bị thương nặng được P và anh N N P là con rễ ông H đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa Trung tâm An Giang. Đến ngày 22-02-2020, do bệnh nặng gia đình xin về và tử vong.

Ngay sau khi tai nạn xảy ra, Đội Cảnh sát Giao thông, Trật tự – Công an huyện Châu Thành tiếp nhận tin báo và báo cáo Cơ quan Cảnh sát Điều tra – Công an huyện Châu Thành thành lập Đoàn khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám nghiệm phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông. Tiến hành kiểm tra nồng độ cồn của N N P, kết quả là 0,00mg/1 lít khí thở. Đồng thời tạm giữ xe gắn máy biển số 67AB – 053.51.

Ngày 21-4-2020, P bị khởi tố để điều tra.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa: Bị cáo N N P khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với nội dung vụ án đã nêu.

Trong quá trình điều tra người đại diện hợp pháp của bị hại chị N T T T trình bày: Chị là con ruột của ông N Q H. Vợ ông H đã chết từ lâu, ông H sống cùng với chị; tai nạn xảy ra chị không chứng kiến. P có đến thăm, thỏa thuận bồi thường và chị đã nhận đủ tổng cộng là 70.000.000đ (bảy mươi triệu đồng), chị không yêu cầu P bồi thường gì thêm và làm đơn xin miễn trách nhiệm hình sự đối với P.

Trong quá trình điều tra người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà P T T trình bày: Xe gắn máy biển số 67AB – 053.51 là xe của P quản lý sử dụng, bà chỉ đứng tên giấy chứng nhận đăng ký xe giùm P.

Trong quá trình điều tra người làm chứng bà N T Q, bà N T H và anh N N P trình bày như nội dung vụ án đã nêu.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố; hành vi của bị cáo N N P đủ yếu tố cấu thành tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Bị cáo đã có hành vi điều khiển xe gắn máy biển số 67AB – 053.51 tham gia giao thông đường bộ trên đường Tỉnh lộ 941 theo hướng Lộ tẻ – T T. khi đến khu vực Tổ 3, ấp V L, xã V B, huyện C T, tỉnh An Giang; P ngủ gật, để xe chạy lấn vào phần lề đường bên phải theo chiều xe chạy; đụng và gây tai nạn với ông N Q H đang đi bộ cặp lề phải cùng chiều phía trước. Hậu quả ông H bị thương nặng được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa Trung tâm An Giang. Đến ngày 22-02-2020, do bệnh nặng gia đình xin về và tử vong. Do đó, P phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi này.

b)Về các vấn đề khác của vụ án:

Tại Biên bản khám nghiệm hiện trường vụ tai nạn giao thông ngày 22-02- 2020, của Cơ quan Cảnh sát Điều tra – Công an huyện Châu Thành, tỉnh An Giang ghi nhận: Đoạn đường nơi xảy ra tai nạn giao thông là đường thẳng, chiều rộng mặt đường là 7,8m, được trán nhựa bằng phẳng, có tim đường là vạch sơn kẻ đường không liền nét, chia hai chiều đường có chiều rộng bằng nhau, đoạn đường thuộc tuyến Tỉnh lộ 941.

Tại Biên bản khám nghiệm xe gắn máy biển số 67AB – 053.51 vào ngày 24-02-2020 của Công an huyện Châu Thành, tỉnh An Giang ghi nhận: Xe bị hư hỏng.

Tại Biên bản khám nghiệm tử thi, Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 38/2020/TT ngày 22-02-2020 của Cơ quan Cảnh sát Điều tra – Công an huyện Châu Thành và Trung tâm pháp y thuộc sở y tế tỉnh An Giang xác định nguyên nhân chết của ông N Q H: Chấn thương sọ não, nứt vỡ toác sọ phòi não.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hay khiếu nại gì về Biên bản khám nghiệm hiện trường; Biên bản khám nghiệm phương tiện; Biên bản kiểm tra nồng độ cồn trong máu: Biên bản khám nghiệm tử thi; kết luận giám định pháp y nêu trên.

Bản cáo trạng số 20/VKSCT-HS ngày 13-7-2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang đã truy tố bị cáo N N P về tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” Theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 260 Bộ Luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử:

*Áp dụng Điểm a Khoản 1 Điều 260; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 với các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Bị cáo tự nguyện sửa chữa, bồi thường toàn bộ thiệt hại, khắc phục hậu quả; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu; bị cáo chấp hành tốt lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; người đại diện hợp pháp của bị hại có đơn yêu cầu miễn trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, chưa có tiền án, tiền sự, nhân thân tốt. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ thuộc khoản 1, khoản 2 Điều 51. Do đó, cần áp dụng Điều 65 của Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15-5-2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; xử phạt bị cáo N N P mức án 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, nhưng cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 03 (ba) năm đến 05 (năm) năm, kể từ ngày tuyên án 21-8-2020. Giao bị cáo P cho UBND xã T L, huyện T B, tỉnh An Giang để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

*Phần bồi thường dân sự, bị cáo đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho người đại diện hợp pháp của bị hại là chị N T T T và chị T không có yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà P T T cũng không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên không đặt ra xem xét.

*Vật chứng vụ án: Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát Điều tra – Công an huyện Châu Thành đã trao trả cho bị cáo 01 xe gắn máy biển số 67AB – 053.51, số máy: P39FMB004592, số khung: CB6UFXP04592 và 01 giấy đăng ký xe gắn máy biển số 67AB – 053.51, tên chủ xe là P T T.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã biết lỗi, bị cáo hối hận, bị cáo hứa sửa đổi, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo, cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra Công an huyện Châu Thành, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ Luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Trong vụ án này có người đại diện hợp pháp của bị hại; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và một số người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa không rõ lý do, mặc dù Tòa án đã tống đạt giấy triệu tập hợp lệ. Xét thấy, sự vắng mặt của họ không gây trở ngại đến việc xét xử giải quyết vụ án, mặt khác, những người này đã có lời khai trong quá trình điều tra, khi cần thiết Hội đồng xét xử sẽ công bố lời khai của họ trước tòa. Căn cứ Điều 292 và Điều 293 của Bộ Luật Tố tụng Hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về nội dung vụ án: Như vậy đã có đủ căn cứ để xác định khoảng 18 giờ 30 phút ngày 21-02-2020, trên tuyến Tỉnh lộ 941 theo hướng Lộ tẻ – T T, tại khu vực qua khỏi Cầu số 4 thuộc Tổ 3, ấp V L, xã V B, huyện C T, tỉnh An Giang. N N P điều khiển xe gắn máy biển số 67AB – 053.51. Do Phát ngủ gật, để xe chạy lấn vào phần lề đường bên phải theo chiều xe chạy; đụng và gây tai nạn với ông N Q H đang đi bộ cặp lề phải cùng chiều phía trước. Hậu quả ông H bị thương nặng được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa Trung tâm An Giang. Đến ngày 22-02-2020, do bệnh nặng gia đình xin về và tử vong. Hành vi của bị cáo đã xâm hại đến tính mạng của bị hại ông H, gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự an toàn công cộng tại địa phương và dư luận xấu trong quần chúng nhân dân. Theo quy định tại Điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì:

1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Làm chết người;

b) …;

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.” Như vậy, bị cáo P đã có hành vi điều khiển xe gắn máy biển số 67AB – 053.51 tham gia giao thông đường bộ trên Tỉnh lộ 941 theo hướng Lộ tẻ – T T. Do P ngủ gật, để xe chạy lấn vào phần lề đường bên phải theo chiều xe chạy; vi phạm vào khoản 23 Điều 8 và khoản 1 Điều 9 của Luật Giao thông Đường bộ năm 2008 gây tai nạn làm chết một người nên đủ yếu tố cấu thành tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo quy định tại Điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Trong những năm gần đây, tình hình tai nạn giao thông đường bộ diễn ra ngày càng nhiều, gây thiệt hại đáng kể đến tính mạng, sức khỏe và tài sản. Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tai nạn là do người điều khiển phương tiện giao thông không tuân thủ luật giao thông đường bộ. Bị cáo P là người thành niên, có đủ khả năng nhận thức được hành vi của mình, điều khiển xe gắn máy là nguồn nguy hiểm cao độ; do ngủ gật để xe chạy lấn vào phần lề đường bên phải theo chiều xe chạy; gây tai nạn giao thông hậu quả là bị hại ông H chết trên đường đi cấp cứu. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những gây đau thương mất mát cho gia đình nạn nhân mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn công cộng, gây lo lắng cho người tham gia giao thông. Với tính chất mức độ phạm tội, hậu quả bị cáo đã gây ra cho bị hại cần thiết phải có mức án tương xứng để xét xử bị cáo nhằm giáo dục cải tạo bị cáo trở thành những công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội và răn đe phòng ngừa chung.

[4] Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân tốt thể hiện việc bị cáo không có tiền án, tiền sự, bị cáo vô ý phạm tội. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải; bị cáo tự nguyện sửa chữa, bồi thường toàn bộ thiệt hại, khắc phục hậu quả cho gia đình của bị hại; bị cáo phạm tội lần đầu; bị cáo chấp hành tốt lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; người đại diện hợp pháp của bị hại có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Do đó, cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[5] Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Từ sau khi thực hiện hành vi phạm tội cho đến khi có quyết định khởi tố vụ án, khởi bị can, bị cáo cũng không vi phạm pháp luật gì mới; bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, chưa có tiền án, tiền sự, nhân thân tốt; bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thuộc khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Căn cứ Điều 65 của Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15-5-2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Do đó, cần tạo điều kiện cho bị cáo tiếp tục lao động, làm lại cuộc đời; Hội đồng xét xử có cân nhắc xem xét nghĩ không cần thiết buộc bị cáo phải cách ly xã hội, mà có thể buộc bị cáo chấp hành hình phạt dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú, như đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành đề nghị cũng đủ mức tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội; đồng thời vẫn đảm bảo được mục đích chống và phòng ngừa chung trong xã hội đối với loại tội phạm này.

[7] Về vật chứng của vụ án: Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát Điều tra – Công an huyện Châu Thành đã trao trả cho bị cáo 01 xe gắn máy biển số 67AB – 053.51, số máy: P39FMB004592, số khung: CB6UFXP04592 và 01 giấy đăng ký xe gắn máy biển số 67AB – 053.51, tên chủ xe là P T T nên không đặt ra xem xét.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho người đại diện hợp pháp của bị hại có chị N T T T nhận tổng cộng là 70.000.000đ (bảy mươi triệu đồng) và chị T không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm nên không đặt ra xem xét.

[9] Án phí: Căn cứ Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016, của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án; Điều 136 của Bộ Luật Tố tụng Hình sự. Bị cáo N N P phải chịu: 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

[10] Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 của Bộ Luật Tố tụng Hình sự.

Bị cáo N N P có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (21-8-2020);

Người đại diện hợp pháp của bị hại chị N T T T, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà P T T vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 Tuyên bố: bị cáo N N P phạm tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Căn cứ vào: Điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15-5-2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Xử phạt N N P 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, nhưng cho bị cáo hưởng án treo. Thời gian thử thách là 03 (ba) năm kể từ ngày tuyên án 21-8-2020.

Giao bị cáo N N P cho UBND xã T L, huyện T B, tỉnh An Giang để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo P thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án Hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo N N P (người được hưởng án treo) cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án Hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo P (người đó) phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc bị cáo P (người đó) phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Căn cứ vào: Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016, của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án; Điều 136 Bộ Luật Tố tụng Hình sự. Bị cáo N N P phải chịu: 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ vào: Điều 331 và Điều 333 của Bộ Luật Tố tụng Hình sự.

Bị cáo N N P có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (21-8-2020);

Người đại diện hợp pháp của bị hại chị N T T T, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà P T T vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2020/HS-ST ngày 21/08/2020 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:20/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về