TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LAI VUNG, TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 39/2019/HS-ST NGÀY 24/10/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 24 tháng 10 năm 2019, tại Phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện Lai Vung xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 40/2019/TLST-HS, ngày 24 tháng 9 năm 2019; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2019/QĐXXST-HS, ngày 27 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:
Hồ Ngọc Đ, sinh ngày: 06/02/2001, tại: Đồng Tháp; Nơi cư trú: 453B/5, ấp T T, xã T P, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: không xác định được và con bà Hồ Thị Kim N; Tiền án, tiền sự: Không; Không bị bắt tạm giữ, tạm giam; Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi trú và hiện đang tại ngoại tại ấp T T, xã T P, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).
- Người bào chữa cho bị cáo Hồ Ngọc Đ: Trợ giúp viên pháp lý: Ông Hà Văn N - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Đồng Tháp, Chi nhánh số 1.
Địa chỉ: 466 đường N S S, K 5, P 1, thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp (có mặt).
- Bị hại: Huỳnh Thanh L - sinh năm: 1955 (Nạn nhân đã chết); nơi cư trú: 367E/5, ấp T T, xã T P, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp.
- Người đại diện hợp pháp của bị hại (Huỳnh Thanh L):
1. Nguyễn Thị Bạch Y - sinh năm: 1960 (vợ bị hại);
2. Huỳnh Kiến T - sinh năm: 1995 (con ruột bị hại);
Cùng nơi cư trú: 367E/5, ấp T T, xã T P, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp.
3. Huỳnh Văn L - sinh năm: 1924 (cha ruột bị hại);
4. Nguyễn Thị N - sinh năm: 1929 (mẹ ruột bị hại);
Cùng nơi cư trú: 418/5, ấp T T, xã T P, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp.
Huỳnh Kiến T, Huỳnh Văn L và Nguyễn Thị N cùng ủy quyền cho: Nguyễn Thị Bạch Y - sinh năm: 1960 (có mặt); nơi cư trú: 367E/5, ấp T T, xã T P, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Trương Thanh H - sinh năm: 1952 (có mặt); nơi cư trú: 34 N Đ T, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.
2. Lê Hùng Bảo - sinh năm: 1979 (vắng mặt); nơi cư trú: 22 D T, quận H C, thành phố Đà Nẵng.
3. Hồ Ngọc S - sinh năm: 1988 (có mặt); nơi cư trú: 453B/5, ấp T T, xã T P, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp.
- Người làm chứng:
1. Trần Hữu M - sinh năm: 1978 (vắng mặt); nơi cư trú: ấp T Q, xã T P, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp.
2. Trần Quốc A - sinh năm: 1983 (vắng mặt); nơi cư trú: 529A/4, ấp T Q, xã T P, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp.
3. Dương Thị S - sinh năm: 1965 (có mặt); nơi cư trú: ấp T T, xã T P, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp.
4. Lý Nhựt D- sinh năm: 1968 (có mặt); nơi cư trú: 227/5, ấp T T, xã T P, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 14 giờ 00 phút, ngày 24/02/2019 Hồ Ngọc Đ điều khiển xe mô tô biển số 43R3-0730, Đ không có giấy phép lái xe hạng A1 theo quy định pháp luật từ nhà của Đ đến quán hủ tiếu của bà Nguyễn Thị B ở ấp T Q, xã T P chơi với người bạn có biệt danh là T G; sau đó Đ điều khiển xe chạy về nhà của Đ ở xã T P đậu xe trước cửa, rồi Đ tiếp tục lấy xe chạy trên đường huyện lộ N G T hướng từ xã T P ra xã T T, khi đến đoạn đường thuộc ấp T Q, xã T P, huyện Lai Vung thì Đ không chú ý quan sát và không làm chủ tốc độ nên điều khiển xe lấn sang phần đường bên trái hướng đi của Đ, dẫn đến lốc máy xe bên phải của Đ va chạm vào phần bánh xe trước của xe mô tô biển số 66L1-508.62 do ông Huỳnh Thanh L điều khiển chạy theo chiều ngược lại, làm 02 xe và người ngã xuống đường. Hậu quả ông L tử vong trên đường đi cấp cứu.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lai Vung tiến hành tạm giữ và khám nghiệm phương tiện 02 xe mô tô.
Ngày 02/8/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lai Vung đã trả lại cho bà Nguyễn Thị Bạch Y 01 xe mô tô biển số 66L1-508.62, số máy JA39E0672164, số khung 3909HY692049, nhãn hiệu HONDA, màu đen - bạc, loại WAVE, dung tích xi lanh 97cm3.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 96/TTh/TTPY, ngày 27/02/2019 của Trung tâm Pháp y tỉnh Đồng Tháp kết luận nguyên nhân chết của ông Huỳnh Thanh L là chấn thương sọ não do tai nạn giao thông.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 80/KL-ĐGTS, ngày 19/7/2019 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự kết luận giá trị thiệt hại xe mô tô biển số 66L1-508.62 là 2.245.600 đồng và xe mô tô biển số 43R3-0730 là 654.000 đồng.
Tại Bản luận giám định số 180/KL-KTHS, ngày 04/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp kết luận: Mẫu máu chứa trong ống nghiệm, ghi thu của Hồ Ngọc Đ, sinh năm: 2001 được thu giữ và niêm phong từ lúc 11 giờ 10 phút đến 11 giờ 15 phút ngày 25/02/2019 tại bệnh viện Đa khoa Sa Đéc, tại thời điểm giám định ngày 26/02/2019 không phát hiện thành phần cồn (Ethanol).
Tại bản cáo trạng số 41/CT-VKSLVg, ngày 24/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lai Vung, đã truy tố Hồ Ngọc Đ ra trước Toà án nhân dân huyện Lai Vung, để xét xử về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 2 Điều 260 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa:
- Bị cáo Hồ Ngọc Đ khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lai Vung truy tố bị cáo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
- Đại diện hợp pháp của bị hại Huỳnh Thanh L, cũng là người đại diện theo ủy quyền của những người đại diện hợp pháp của bị hại là bà Nguyễn Thị Bạch Y trình bày: Bà là vợ của bị hại Huỳnh Thanh L việc ông L bị tai nạn và tử vong là đúng như nội dung cáo trạng. Gia đình của bà đã nhận số tiền 4.610.000 đồng của Hồ Ngọc S là cậu ruột của Đ để sửa xe, bà yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 158.847.000 đồng (gồm tiền thuê xe chở ông L đi cấp cứu 5.000.000 đồng, tiền mua đồ khâm liệm 1.500.000 đồng, tiền mua vật liệu xây mộ 13.347.000 đồng, tiền tổn thất tinh thần 139.000.000 đồng), trừ lại số tiền mà gia đình bà đã nhận 4.610.000đ, còn lại 154.237.000 đồng, nay bà yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền còn lại là 154.237.000 đồng, về hình sự bà yêu cầu Hội đồng xét xử xử bị cáo theo quy định pháp luật, ngoài ra bà không trình bày gì thêm.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Hồ Ngọc S trình bày: Anh là cậu ruột của bị cáo Đ, khi bị cáo Đ gây ra tai nạn, anh có xuất ra số tiền 4.610.000 đồng để bồi thường tiền sửa xe cho gia đình bị hại, số tiền này anh cho bị cáo để khắc phục cho gia đình bị hại, anh không yêu cầu bị cáo trả lại và không trình bày gì thêm.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trương Thanh H trình bày: Xe mô tô biển số 43R3-0730 mà bị cáo chạy gây tai nạn, xe này trước đây là của ông, hiện ông còn đứng tên giấy xe, xe có biển số 68S2-4546, xe này ông đã cho người em nhưng chưa làm thủ tục sang tên, em ông đã bán xe này lại cho người khác, nay ông không có yêu cầu gì trong vụ án này.
- Những người làm chứng bà Dương Thị S và ông Lý Nhựt D cùng trình bày: Biết ông Huỳnh Thanh L chết do tai nạn giao thông từ bị cáo Đ gây ra, ngoài ra không trình bày gì thêm.
- Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội: khẳng định việc truy tố đúng như cáo trạng đã nêu là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật bị cáo Hồ Ngọc Đ đã có hành vi điều khiển xe mô tô biển số 43R3-0730, bị cáo không có giấy phép lái xe theo quy định khi tham gia giao thông, không chú ý quan sát và không làm chủ tốc độ nên chạy lấn sang phần đường bên trái hướng đi dẫn đến va chạm với xe mô tô biển số 66L1-508.62 do ông Huỳnh Thanh L điều khiển chạy theo chiều ngược lại gây tai nạn làm cho ông L chấn thương sọ não và tử vong, khi thực hiện hành vi bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã khắc phục một phần hậu quả và gia đình bị cáo là hộ nghèo; nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt Hồ Ngọc Đ từ 02 năm đến 03 năm tù. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 591 Bộ luật dân sự; đề nghị Hội đồng xét xử tuyên công nhận sự thỏa thuận của bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị hại là bị cáo Đ có nghĩa vụ bồi thường 154.237.000 đồng cho những người đại diện hợp pháp cho bị hại L. Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên: Trả cho bị cáo 01 xe mô tô biển số 43R3-0730 nhưng tiếp tục giao xe mô tô biển số 43R3-0730, số máy FMH10086179, số khung XCHL00134331, nhãn hiệu BEST, màu sơn Đ, dung tích xi lanh 109 cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Lai Vung quản lý để đảm bảo cho giai đoạn thi hành án (Vật chứng trên hiện do Chi cục thi hành án dân sự huyện Lai Vung đang quản lý). Về án phí, đề nghị Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định pháp luật.
- Trợ giúp viên pháp lý ông Hà Văn N phát biểu quan điểm: Thống nhất luận tội của Kiểm sát viên bị cáo Hồ Ngọc Đ phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 2 Điều 260 của Bộ luật hình sự, nhưng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét những tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo Đ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã khắc phục một phần hậu quả, gia đình bị cáo thuộc diện hộ nghèo, bị cáo không biết chữ nên nhận thức pháp luật của bị cáo còn hạn chế, nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 54 của Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng mức án dưới khung hình phạt. Phần dân sự, gia đình bị cáo thuộc diện hộ nghèo, gia đình rất khó khăn, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét theo quy định tại Điều 590, 591 của Bộ luật dân sự.
Bị cáo Hồ Ngọc Đ thống nhất với phát biểu của vị Trợ giúp viên, bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của những người đại diện hợp pháp cho bị hại L số tiền 154.237.000 đồng, ngoài ra không tranh luận gì. Bị cáo không nói lời sau cùng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên của huyện Lai Vung trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục của Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng trong vụ án không có ý kiến, khiếu nại gì về hành vi, quyết định của các cơ quan, người tiến hành tố tụng. Do đó các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án là hợp pháp.
[2] Về hành vi của bị cáo: Bị cáo Hồ Ngọc Đ đã có hành vi điều khiển xe mô tô biển số 43R3-0730 mà không có giấy phép lái xe hạng A1 theo quy định, do không chú ý quan sát, không đảm bảo an toàn và không làm chủ tốc độ nên chạy lấn sang phần đường bên trái hướng đi, nên xe của bị cáo Đ đã va chạm vào phần bánh xe trước của xe mô tô biển số 66L1-508.62 do ông Huỳnh Thanh L điều khiển chạy ngược chiều gây ra tai nạn, hậu quả làm ông Huỳnh Thanh L chấn thương sọ não và tử vong; lời nhận tội của bị cáo là phù hợp với hiện trường vụ án, phù hợp với lời khai của người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, do đó lời nhận tội của bị cáo là có căn cứ, khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, cho nên hành vi của bị cáo Hồ Ngọc Đ có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” phạm vào điểm a khoản 2 Điều 260 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại điểm a khoản 1 và điểm a khoản 2 Điều 260 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định:
“1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Làm chết người;
……………………………
2.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Không có giấy phép lái xe theo quy định;
……………….”.
[3] Về tính chất, mức độ tội phạm: Hành vi của bị cáo Hồ Ngọc Đ là rất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tính mạng của người khác một cách trái pháp luật, làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự, an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn huyện. Bị cáo biết rõ khi tham gia giao thông không có giấy phép lái xe theo quy định, không chú ý quan sát và không đảm bảo an toàn là vi phạm luật giao thông đường bộ, nhưng do chủ quan mà bị cáo Hồ Ngọc Đ đã gây ra tai nạn giao thông, làm cho ông Huỳnh Thanh L tử vong, với hậu quả rất nghiêm trọng như trên, nên việc đưa bị cáo ra xét xử công khai như ngày hôm nay là cần thiết, thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật, nhằm mục đích giáo dục phòng ngừa chung trong xã hội, vì vậy cần phải có một mức hình phạt nghiêm đối với bị cáo nhằm mục đích răn đe, giáo dục phòng ngừa chung cho xã hội.
[4] Kiểm sát viên đề nghị giải quyết nội dung vụ án và về mức hình phạt cũng như các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo Đ là đúng quy định pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo Hồ Ngọc Đ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã khắc phục một phần hậu quả, bị cáo là thành viên trong gia đình thuộc hộ nghèo đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; bị cáo được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 của Điều 51, bị cáo thiện chí tự nguyện bồi thường theo yêu cầu của người đại diện hợp pháp cho bị hại, nên Hội đồng xét xử áp dụng thêm Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[6] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trương Thanh H và Hồ Ngọc S không yêu cầu gì trong vụ án này, nên Hội đồng xét xử không đặt thành vấn đề xem xét giải quyết.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Lê Hùng B vắng mặt tại phiên tòa, nhưng qua các lời khai có trong hồ sơ vụ án ông bảo trình bày: Trước đây ông có đứng tên giấy xe biển số 43R3-0730, xe ông đã bán lại cho một cửa hàng không nhớ rõ địa chỉ, ông không có yêu cầu gì trong vụ án này.
[7] Về xử lý vật chứng: Trả cho bị cáo Hồ Ngọc Đ 01 xe mô tô biển số 43R3- 0730, số khung: LWGXCHL00134331, số máy: 1P53FMH*10086179*, nhãn hiệu BEST, màu Đ, loại xe hai bánh, dung tích xi lanh 109cm3, tình trạng xe: Đầu xe bị bể hoàn toàn, tay nắm bên phải bị sứt rời; đèn chiếu sáng, đèn tín hiệu phải, trái bể sứt rời; bóng đèn chiếu sáng phía trước bị đứt dây tóc chiếu gần, xa; vè trước bị bể sứt rời; phuộc trước bên phải, trái cong về sau; vành xe phía trước bên phải bị cong từ ngoài vào trong kích thước 15cm; ốc cốt trước bên phải, mặt ngoài có dấu trầy xước từ trước ra sau; hai ốc gắn heo dầu thắng đĩa trước bên phải bị sứt mất; heo dầu thắng đĩa trước bị sứt rời; lá gió ốp máy bên phải bị gãy ba lá, sứt rời; tay nắm trước bên trái mặt ngoài bị trầy xước. Nhưng giao cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Lai Vung tiếp tục quản lý để đảm bảo cho giai đoạn thi hành án.
(Vật chứng trên hiện do Chi cục thi hành án dân sự huyện Lai Vung đang quản lý).
[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Hồ Ngọc Đ và người đại diện hợp pháp của bị hại tự nguyện thống nhất là bị cáo Đ có nghĩa vụ bồi thường 154.237.000 đồng (gồm tiền thuê xe chở ông L đi cấp cứu, tiền mua đồ khâm liệm, tiền mua vật liệu xây mộ mã và tiền tổn thất tinh thần) cho những người đại diện hợp pháp cho bị hại L, nên Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận này là phù hợp theo quy định tại Điều 591 của Bộ luật dân sự.
[9] Về án phí: Tại phiên tòa bị cáo Hồ Ngọc Đ yêu cầu được miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm, yêu cầu của bị cáo là chấp nhận phù hợp theo quy định tại Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[10] Bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tuyên bố bị cáo Hồ Ngọc Đ phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
Xử phạt bị cáo Hồ Ngọc Đ - 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
2. Về xử lý vật chứng và tài sản thu giữ: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tuyên:
Trả cho bị cáo Hồ Ngọc Đ 01 xe mô tô biển số 43R3-0730, số khung: LWGXCHL00134331, số máy: 1P53FMH*10086179*, nhãn hiệu BEST, màu Đ, loại xe hai bánh, dung tích xi lanh 109cm3, tình trạng xe: Đầu xe bị bể hoàn toàn, tay nắm bên phải bị sứt rời; đèn chiếu sáng, đèn tín hiệu phải, trái bể sứt rời; bóng đèn chiếu sáng phía trước bị đứt dây tóc chiếu gần, xa; vè trước bị bể sứt rời; phuộc trước bên phải, trái cong về sau; vành xe phía trước bên phải bị cong từ ngoài vào trong kích thước 15cm; ốc cốt trước bên phải, mặt ngoài có dấu trầy xước từ trước ra sau; hai ốc gắn heo dầu thắng đĩa trước bên phải bị sứt mất; heo dầu thắng đĩa trước bị sứt rời; lá gió ốp máy bên phải bị gãy ba lá, sứt rời; tay nắm trước bên trái mặt ngoài bị trầy xước. Nhưng giao cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Lai Vung tiếp tục quản lý để đảm bảo cho giai đoạn thi hành án.
(Vật chứng trên hiện do Chi cục thi hành án dân sự huyện Lai Vung đang quản lý).
3. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 591 Bộ luật dân sự 2015:
Công nhận sự thỏa thuận của bị cáo Hồ Ngọc Đ và những người đại diện hợp pháp của bị hại Huỳnh Thanh L là bị cáo Hồ Ngọc Đ có nghĩa vụ bồi thường 154.237.000 đồng cho những người đại diện hợp pháp của bị hại Huỳnh Thanh L gồm Nguyễn Thị Bạch Y, Huỳnh Kiến T, Huỳnh Văn L và Nguyễn Thị N.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án mà bên phải thi hành án chưa thi hành xong, thì hàng tháng còn phải chịu tiền lãi bằng 50% mức lãi suất theo quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án, đến khi thi hành án xong.
4. Về án phí: Căn cứ Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Hồ Ngọc Đ được miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.
Bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 24/10/2019; Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày, tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 39/2019/HS-ST ngày 24/10/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ
Số hiệu: | 39/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lai Vung - Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về