Bản án 20/2019/HNGĐ-ST ngày 30/05/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 20/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/05/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 30 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 44/2019/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 3 năm 2019 về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con chung theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 4 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1993; địa chỉ: Số 10/10, khu phố A, phường Ch, thị xã A, tỉnh Bình Dương, có mặt.

2. Bị đơn: Ông Lê Hoàng Ph, sinh năm 1990; địa chỉ: Số 308/9, Tổ 68, Khu phố 7, phường L, thành phố M, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại Đơn khởi kiện đề ngày 22/02/2019 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Ngọc H trình bày:

Bà H và ông Ph là vợ chồng, chung sống với nhau năm 2013, đăng ký kết hôn ngày 10/3/2015 tại UBND phường L, thành phố M, tỉnh Bình Dương.

Sau khi kết hôn, bà H về nhà ông Ph sinh sống. Thời gian đầu chung sống, vợ chồng hạnh phúc, sau đó bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do ông Ph không có trách nhiệm với gia đình, khi bà H mang thai ông Ph không chăm sóc, lo lắng mà còn đánh đập bà H. Ông Ph không chung thủy, quan hệ bất chính với người phụ nữ khác. Vì vậy, tháng 11/2015, bà H về nhà cha mẹ ruột sinh sống, cả hai ly thân từ đó đến nay. Năm 2016, ông Ph sử dụng ma túy, bị công an bắt và Tòa án xử phạt 02 năm tù. Thời gian ông Ph chấp hành hình phạt tù, bà H nộp đơn ly hôn, do ông Ph không đồng ý ly hôn nên bà H rút lại đơn ly hôn. Sau khi ông Ph chấp hành xong hình phạt tù, bà H tạo điều kiện cho ông Ph sửa đổi tính tình nhưng ông Ph không sửa đổi nên tình cảm vợ chồng luôn xảy ra mâu thuẫn. Hiện nay, bà H nhận thấy không còn tình cảm với ông Ph, đời sống chung không thể kéo dài, không còn khả năng hàn gắn tình cảm nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

Về con chung: Quá trình chung sống, bà H, ông Ph có 01 con chung là cháu Lê Nguyễn Phúc D, sinh ngày 14/02/2014. Do con chung còn nhỏ, đang sống với bà H. Vì vậy, sau khi ly hôn, bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu ông Ph cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại bản tự khai ngày 22/4/2019 và quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Lê Hoàng Ph trình bày:

Ông Ph và bà H là vợ chồng. Ông Ph thống nhất lời trình bày của bà H về thời gian kết hôn, con chung và nguyên nhân vợ chồng mâu thuẫn. Năm 2016, khi ông Ph chấp hành hình phạt tù ở Trại giam An Phước thuộc huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương thì bà H nộp đơn ly hôn nhưng do ông Ph không đồng ý nên bà H rút đơn ly hôn. Hiện nay, ông Ph còn thương vợ, con nên không đồng ý ly hôn. Trường hợp Tòa án giải quyết cho bà H ly hôn với ông Ph. Ông Ph yêu cầu được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung, nợ chung, ông Ph không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, - Bà H giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, không cung cấp thêm chứng cứ cho Tòa án.

- Ông Ph đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng không đến tham gia phiên tòa. Do đó, căn cứ các điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa xét xử vắng mặt ông Ph.

- Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng quy định tại Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm; nguyên đơn đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng, bị đơn chưa chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

+ Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét tại phiên tòa, nhận thấy hôn nhân của bà H, ông Ph mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu khởi kiện về ly hôn, con chung của nguyên đơn có cơ sở chấp nhận.

+ Những yêu cầu, kiến nghị để khắc phục vi phạm tố tụng ở giai đoạn sơ thẩm: Không.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; ý kiến trình bày của nguyên đơn và ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án (quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự). Do bị đơn có nơi cư trú tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương nên thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương (quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự). Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn liên quan đến quyền nhân thân nên thuộc trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện (quy định tại Điều 39, khoản 1 Điều 155 của Bộ luật Dân sự).

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, thấy rằng:

Về hôn nhân: Bà H, ông Ph chung sống với nhau có đăng ký kết hôn nên hôn nhân của ông bà được pháp luật công nhận. Bà H nộp đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, ông Ph không có trách nhiệm với vợ con, sống không chung thủy, vi phạm pháp luật và có hành vi bạo lực gia đình đánh đập bà H. Ông Ph thừa nhận vợ chồng có mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do lỗi ông Ph. Xét thấy, vợ chồng phải biết yêu thương, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc. Tuy nhiên, qua lời trình bày của bà H, ông Ph và thu thập chứng cứ, thấy rằng: Mâu thuẫn tình cảm giữa bà H, ông Ph là có thật và rất nghiêm trọng, cả hai sống ly thân nhau từ tháng 11/2015 đến nay, không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau, nền tảng một gia đình hạnh phúc không có. Bà H nhiều lần cho ông Ph cơ hội để sửa đổi tính tình nhưng ông Ph vẫn không thay đổi. Xét thấy mâu thuẫn giữa bà H, ông Ph đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được.

Tại phiên tòa, bà H cương quyết ly hôn ông Ph. Do đó, căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, Tòa chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà H.

Về con chung: Quá trình chung sống, bà H, ông Ph có 01 con chung là cháu Lê Nguyễn Phúc D, sinh ngày 14/02/2014. Sau khi ly hôn, bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông Ph cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, con chung còn nhỏ, hiện nay đang sống với bà H, ông Ph thiếu trách nhiệm, chưa có nghề nghiệp ổn định. Do đó, Tòa chấp nhận yêu cầu nuôi con chung của bà H, giao cháu D cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con do bà H không yêu cầu nên Tòa không xem xét giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà H, ông Ph không yêu cầu Tòa giải quyết.

[3] Về án phí: Bà H phải chịu theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 92, khoản 4 Điều 147, các điều 266, 273, 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 39, khoản 1 Điều 155 Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Căn cứ các điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Ngọc H đối với bị đơn ông Lê Hoàng Ph về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con chung.

- Về hôn nhân: Bà H được ly hôn ông Ph.

- Về con chung: Bà H được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Lê Nguyễn Phúc D, sinh ngày 14/02/2014.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Bà H không yêu cầu nên Tòa không xem xét giải quyết.

 Không ai được quyền cản trở việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung của ông Ph. Ông Ph không được lạm dụng việc thăm nom con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con của bà H. Vì lợi ích của con chung, các đương sự có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Bà H, ông Ph không yêu cầu giải quyết.

2. Về án phí hôn nhân gia đình: Bà H nộp 300.000 (ba trăm ngàn) đồng, được trừ vào số tiền 300.000 (ba trăm ngàn) đồng đã nộp trước đây theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0033533, ngày 01/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố M.

3. Về quyền kháng cáo, kháng nghị: Bà H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Ông Ph có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án. Viện Kiểm sát có quyền kháng nghị bản án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2019/HNGĐ-ST ngày 30/05/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:20/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về