Bản án 20/2018/HSST ngày 29/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HD, TỈNH HD

BẢN ÁN 20/2018/HSST NGÀY 29/01/2018 VỀ TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố HD, Toà án nhân dân thành phố HD xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 222/2017/HSST ngày 20 tháng 10 năm 2017 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 235/2017/QĐXXST-HS ngày 08/11/2017 và Quyết định hoãn phiên tòa; Thông báo mở lại phiên tòa đối với các bị cáo:

1. NGUYỄN XUÂN Q - sinh năm 1980. Tại Ngọc Châu, thành phố HD. ĐKHKTT: Khu 14, phường Ngọc Châu, thành phố  HD.

Chỗ ở: Số 219/93 CL, phường Nguyễn Trãi, thành phố HD.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá:  9/12; Dân tộc: Kinh. Con ông Nguyễn Xuân H1 và bà Lê Thị L.

Vợ: Đinh Hương Gi (đã ly hôn).

Bị cáo có hai con.

Nhân thân: Tháng 3/2009, Tòa án nhân dân TP. HD xử phạt 6 tháng tù giam về tội Đánh bạc (số tiền đánh bạc: 1.410.000đ).

Tạm giữ từ ngày 07/8/2017 chuyển tạm giam từ ngày 10/8/2017 đến nay tại Trại tạm giam Kim Chi Công an tỉnh HD.

Bị cáo có mặt tại phiên toà

2. LÊ VĂN H - sinh năm 1975. Tại Bình Hàn, thành phố HD. ĐKHKTT: Khu 10, phường  Bình Hàn, thành phố HD.

Chỗ ở: 15/88 ĐVT, phường Bình Hàn - thành phố HD.

Dân tộc: Kinh; Văn hoá: 7/12, Nghề nghiệp: Không.

Con ông Lê Văn Ch - Đã chết và bà Phùng Thị C - Đã chết

Tiền án, tiền sự: Chưa.

Nhân thân:

- Tháng 8/2000, Tòa án nhân dân tỉnh HD xử phạt 30 tháng tù về tội Cướp giật tài sản. Nộp án phí ngày 30/5/2003.

- Tháng 10/2003, Tòa án nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh HD xử phạt 9 tháng tù giam về tội Đánh bạc. Nộp án phí tháng 4/2005.

- Tháng 01/2004, Tòa án nhân dân TP. Hà Nội xử phạt 4 năm tù về tội Cố ý gây thương tích. Nộp án phí tháng 4/2005.

- Tháng 6/2012, Tòa án nhân dân TP. HD xử phạt 7 tháng tù về tội Đánh bạc (số tiền đánh bạc là 2.570.000đ). Ngày 09/6/2014 thi hành án, ra trại 03/01/2015. Nộp án phí ngày 06/6/2013.

Tạm giữ từ ngày 07/8/2017 chuyển tạm giam từ ngày 10/8/2017 đến ngày 28/9/2017 tại Trại tạm giam Kim Chi Công an tỉnh HD. Hiện bị caó đang thực hiện Quyết định cho bảo lĩnh số 07 ngày 29/9/2017 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP. HD.

Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên toà.

* Người bị hại:

Bà Nguyễn Thị B, sinh 1959.

Trú tại: Số 7/99 phố AN, phường Quang Trung, thành phố HD Có mặt tại phiên toà.

Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Kim A, sinh 1978.

Trú tại: 24 TN, phường Lê Thanh Nghị, thành phố HD. Anh Kim Anh có đơn xin xử vắng mặt.

2. Chị Nguyễn Thị H2, sinh 1975.

Trú tại: Số 56/218 VH, phường Thanh Bình, TP HD. Chị H2 vắng mặt tại phiên toà.

NHẬN THẤY

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên toà nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 06/8/2017, Nguyễn Xuân Q điều khiển xe máy SYM Angel (Q mượn của anh Nguyễn Kim A ở 24 Thống Nhất phường Lê Thanh Nghị, thành phố HD từ trước đó) mang theo công cụ phá khóa gồm:

01 tay công dài 08 cm, 01 chiếc vam dài 05 cm và 01 chiếc cà lê 10 đến nhà Lê Văn H rủ H đi trộm cắp tài sản, H đồng ý. H điều khiển xe máy trên chở Q đi lòng vòng các tuyến phố xem có xe máy sơ hở thì trộm cắp. Khi đi đến nhà trọ số 56/218 Vũ Hựu, phường Thanh Bình - TP. HD, cả hai thấy trong lối đi ngách vào cửa sau nhà trọ có dựng 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave Alpha màu trắng đen, BKS: 34B2 - 542.46 của bà Nguyễn Thị B ở 7/99 An Ninh, phường Quang Trung, TP. HD. H vòng xe quay lại, đi qua cửa ngôi nhà trên khoảng 10m thì dừng xe đứng ngoài cảnh giới còn Q đi đến chỗ dựng xe, dùng bộ vam phá ổ khóa điện của xe rồi lên xe nổ máy đi ra đường Trường Chinh. H thấy Q đã lấy trộm được xe nên H quay về nhà. Q đi xe máy đến bãi đất trống khu vực chân cầu Hàn, TP. HD thì dừng lại dùng cà lê tháo biển số xe cất vào trong cốp và điều khiển xe máy Wave Alpha trộm cắp đến nhà anh Nguyễn Kim A ở 24 Thống Nhất, phường Lê Thanh Nghị - TP. HD. Trên đ- ường đi Q đã làm rơi chiếc cờ lê (không nhớ vị trí). Khi đến gặp anh A, Q gạ bán chiếc xe nhưng anh A chưa đồng ý và bảo Q cứ đi xe về trước. Q hẹn anh A buổi tối đến nhà H để xem xe, anh A đồng ý. Sau đó, Q đi xe máy về nhà H ở số 15/88 Đinh Văn Tả - TP. HD, thấy H đang nằm ngủ trong nhà, Q lấy biển số xe 34B2 - 542.46 vừa tháo giấu dưới gầm giường. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, anh A đến nhà H thì gặp Q, Q nói với A là Q đang thiếu tiền nên muốn cầm cố chiếc xe Wave, giấy tờ xe Q để ở nhà không mang theo. Anh A đồng ý giữ chiếc xe Wave để làm tin, cho Q vay 1.500.000 đồng và yêu cầu Q phải mang giấy tờ xe đến. Sau khi nhận tiền, Q đưa cho H 1.000.000 đồng, còn 500.000 đồng Q giữ. Số tiền này Q, H đã chi tiêu hết. Đến khoảng 12 giờ 30 phút ngày 07/8/2017, anh A không thấy Q mang giấy tờ đến nên đã đi chiếc xe Wave Alpha trên đến nhà H để giải quyết nhưng không gặp Q và H nên anh A đã để xe máy ở trước cửa nhà H.

Khoảng 17 giờ 00 phút cùng ngày sau khi nhận được tin báo của quần chúng nhân dân phát hiện tại ngõ 88 Đinh Văn Tả, phường Bình Hàn, TP. HD có 01 xe máy Honda Wave Alpha không có người quản lý, không đeo biển kiểm soát, không quan sát được số khung, số máy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố HD đã quản lý chiếc xe trên.

Quá trình điều tra xác định: Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 06/8/2017, Nguyễn Xuân Q điều khiển xe máy SYM Angel (Q mượn của anh Nguyễn Kim A mang theo công cụ phá khóa gồm: 01 tay công dài 08 cm, 01 chiếc vam dài 05 cm và 01 chiếc cà lê 10 đến nhà Lê Văn H rủ H đi trộm cắp tài sản, H đồng ý. H điều khiển xe máy trên chở Q đi lòng vòng các tuyến phố xem có xe máy sơ hở thì trộm cắp. Khi đi đến nhà trọ số 56/218 Vũ Hựu, phường Thanh Bình - TP. HD, cả hai thấy trong lối đi ngách vào cửa sau nhà trọ có dựng 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave Alpha màu trắng đen, BKS: 34B2 - 542.46 của bà Nguyễn Thị B. H vòng xe quay lại, đi qua cửa ngôi nhà trên khoảng 10m thì dừng xe đứng ngoài cảnh giới còn Q đi đến chỗ dựng xe, dùng bộ vam phá ổ khóa điện của xe rồi lên xe nổ máy đi ra đường Trường 

Chinh. H thấy Q đã lấy trộm được xe nên H quay về nhà. Q đi xe máy đến bãi đất trống khu vực chân cầu Hàn - TP. HD thì dừng lại dùng cà lê tháo biển số xe cất vào trong cốp và điều khiển xe máy Wave Alpha trộm cắp đến nhà anh Nguyễn Kim A ở 24 Thống Nhất, phường Lê Thanh Nghị - TP. HD. Trên đ- ường đi Q đã làm rơi chiếc Cờ lê (không nhớ vị trí). Khi đến gặp anh A, Q gạ bán chiếc xe nhưng anh A chưa đồng ý và bảo Q cứ đi xe về trước. Q hẹn anh A buổi tối đến nhà H để xem xe, anh A đồng ý. Sau đó, Q đi xe máy về nhà H ở số 15/88 Đinh Văn Tả - TP. HD, thấy H đang nằm ngủ trong nhà, Q lấy biển số xe 34B2 - 542.46 vừa tháo giấu dưới gầm giường. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, anh A đến nhà H thì gặp Q, Q nói với Anh là Q đang thiếu tiền nên muốn cầm cố chiếc xe Wave, giấy tờ xe Q để ở nhà không mang theo. Anh A đồng ý giữ chiếc xe Wave để làm tin, cho Q vay 1.500.000 đồng và yêu cầu Q phải mang giấy tờ xe đến. Sau khi nhận tiền, Q đưa cho H 1.000.000 đồng, còn 500.000 đồng Q giữ. Số tiền này Q, H đã chi tiêu hết. Đến khoảng 12 giờ 30 phút ngày 07/8/2017, anh A không thấy Q mang giấy tờ đến nên đã đi chiếc xe Wave Alpha trên đến nhà H để giải quyết nhưng không gặp Q và H nên anh A đã để xe máy ở trước cửa nhà H.

Khoảng 17 giờ 00 phút cùng ngày sau khi nhận được tin báo của quần chúng nhân dân phát hiện tại ngõ 88 Đinh Văn Tả, phường Bình Hàn, TP. HD có 01 xe máy Honda Wave Alpha không có người quản lý, không đeo biển kiểm soát, không quan sát được số khung, số máy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố HD đã quản lý chiếc xe trên.

Trong quá trình điều tra và tại phiên toà các bị cáo Nguyễn Xuân Q và Lê Văn H đã khai nhận hành vi phạm tội: Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 06/8/2017, tại lối đi vào ngôi nhà số 56/218 Vũ Hựu, phường Thanh Bình, TP. HD, lợi dụng sơ hở Nguyễn Xuân Q và Lê Văn H đã chiếm đoạt của bà Nguyễn Thị B ở 7/99 An Ninh, phường Quang Trung, TP. HD 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha, màu trắng đen, BKS: 34B2 - 542.46, trị giá 12.950.000đồng.

Tại Kết luận định giá số 218/KL-HĐĐG ngày 11/9/2017 của hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND TP. HD xác định trị giá chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave Alpha, màu trắng đen định giá trên hồ sơ là 12.950.000 đồng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố HD giữ quyền công tố tại phiên toà vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, hành vi của các bị cáo Nguyễn Xuân Q và Lê Văn H đủ yếu tố cấu thành tội "Trộm cắp tài sản".

Bản Cáo trạng số 219/VKS-HS ngày 20/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố HD, tỉnh HD truy tố các bị cáo Nguyễn Xuân Q, Lê Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 BLHS. Tại phiên toà Viện kiểm sát nhân dân thành phố HD đề ghị truy tố các bị cáo theo khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 vì khoản 4 Điều 173 BLHS năm 2015 có mức hình phạt nhẹ hơn khoản 4 Điều 138 BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009. Đề nghị HĐXX:

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Xuân Q, Lê Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017(đối với bị cáo Q).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân Q từ 15 tháng đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 07/8/2017.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (đối với bị cáo H).

Xử phạt bị cáo Lê Văn H từ 12 tháng đến 15 tháng tù (được trừ ngày tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/8/2017 đến ngày 29/9/2017). Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Khoản 1 Điều 48 BLHS năm 2015; Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 589, Điều 587, Điều 357 Bộ luật dân sự.

Xử buộc các bị cáo Nguyễn Xuân Q, Lê Văn H có trách nhiệm liên đới bồi thường cho bà Nguyễn Thị B 12.950.000đ.

- Về vật chứng:

+ Tịch thu tiêu huỷ 01 biển kiểm số 34B2-542.46; 01 tay công bằng kim loại màu trắng, dài 08cm; 01 đầu mũi vam phá khóa bằng kim loại dài 05cm.

Theo điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Về án phí: Căn cứ Điều 136 BLTTHS năm 2015; Luật phí, lệ phí Toà án; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Quốc hội. Buộc các bị cáo Q, H mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.

Các bị cáo và Kiểm sát viên không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố HD. Các bị cáo nói lời sau cùng, đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo đƣợc hƣởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào cáo tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Các bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp trên đủ để truy tố các bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 BLHS. Tại phiên toà Viện kiểm sát nhân dân thành phố HD đề nghị truy tố các bị cáo theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, tại khoản 4 Điều 173 BLHS năm 2015 có mức hình phạt nhẹ hơn khoản 4 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009. Nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố HD, tỉnh HD truy tố các bị cáo với tội danh và điều luật nêu trên là đúng người, đúng tội.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây tâm lý hoang mang trong nhân dân, gây mất trật tự tại địa phương, xã hội. Các bị cáo đều có nhân thân xấu đó bị xột xử nhiều bản ỏn (các bản án đương nhiên được xoá án tích) nhưng các bị cáo không lấy làm bài học cho bản thân mà vẫn tiếp tục phạm tội. Do vậy cần phải có mức hình phạt, xử lý nghiêm đối với các bị cáo nhằm giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.

Đánh giá vai trò đồng phạm của các bị cáo: Các bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp không có sự phân công, bàn bạc. Phạm tội đồng phạm giản đơn. Bị cáo Q là người đề suất, chuẩn bị công cụ phạm tội, trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội khi chiếm đoạt được tài sản Q giao dịch mang tài sản đi cầm cố lấy tiền chia nhau để tiêu sài cá nhân nên bị cáo Q có vai trò chính trong vụ án. Bị cáo H thực hiện hành vi vai trò giúp sức. Do vậy bị cáo Q có vai trò thứ nhất sau đến H.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Q, H không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Tình tiết giảm nhẹ: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà, các bị cáo thành khẩn khai báo nên các bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo Q có bố đẻ được tặng Huân chương kháng chiến hạng nhì nên được áp dụng khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo nghề nghiệp không ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng phạt tiền đối với các bị cáo.

- Về trách nhiệm dân sự: Tài sản các bị cáo trộm cắp không thu hồi được, người bị hại bà Nguyễn Thị B yêu cầu các bị cáo bồi thường trị giá xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave alpha màu trắng, đen theo kết luận định giá tài sản là 12.950.000đ. HĐXX xét yêu cầu của bà B phù hợp pháp luật cần được chấp nhận. Xử buộc các bị cáo Q, H có trách nhiệm liên đới bồi thường cho bà B trị giá xe mô tô Honda Wave Alpha, màu trắng đen. Chia kỷ phần bị cáo Q bồi thường 7.000.000đ; bị cáo H bồi thường 5.950.000đ theo khoản 1 Điều 48 BLHS năm 2015; Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 587, Điều 589, Điều 357 BLDS.

- Đối với anh Nguyễn Kim A cho bị cáo Q vay 1.500.000đ anh A không yêu cầu Toà án xem xét giải quyết. Nên trách nhiệm dân sự HĐXX không xem xét giải quyết.

Về vật chứng: Các bị cáo dùng làm công cụ thực hiện phạm tội: 01 tay công bằng kim loại màu trắng, dài 08cm; 01 đầu mũi vam phá khóa bằng kim loại dài 05cm và 01 biển kiểm số 34B2-542.46 không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu huỷ theo điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS năm 2015.

Đối với chiếc xe máy nhón hiệu Honda Wave Alpha, màu trắng đen cơ quan điều tra thu giữ được tại ngõ 88 Đinh Văn Tả, phường Bình Hàn - TP. HD, Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định số khung số máy nguyên thủy của chiếc xe. Tại Kết luận giám định số 75 ngày 08/9/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh HD không xác định được số khung, số máy nguyên thủy của chiếc xe. Do đó đến nay chưa đủ căn cứ xác định nguồn gốc của chiếc xe máy này, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố HD tiếp tục xác minh để xử lý theo quy định của pháp luật là phù hợp.

Đối với anh Nguyễn Kim A là người cho Nguyễn Xuân Q mượn xe máy Angel nhưng không biết Q sử dụng vào việc phạm tội và nhận cầm cố xe máy Wave Alpha cho Q vây tiền nhưng không biết đây là tài sản do phạm tội mà có nên không có căn cứ để xử lý.

- Về án phí: Các bị cáo phạm tội phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự theo quy định tại Điều 136 BLTTHS năm 2015 sử đổi bổ sung năm 2017; Luật phí, lệ phí toà ắn; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định mức thu án phí, lệ phí Toà án.

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố HD, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố HD, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố, đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo, người bị hại và không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó , các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Xuân Q, Lê Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (đối với bị cáo Q).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân Q 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 07/8/2017.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (đối với bị cáo H).

Xử phạt bị cáo Lê Văn H 12 (mười hai) tháng tù (được trừ ngày tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/8/2017 đến ngày 29/9/2017). Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

-Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 48 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 584; Điều 585; Điều 586; Điều 589; Điều 587; Điều 357 BLDS; Điều 26 Luật thi hành án dân sự:

Xử buộc các bị cáo Nguyễn Xuân Q, Lê Văn H có trách nhiệm liên đới bồi thường cho bà Nguyễn Thị B, sinh 1959; trú tại số 7/99 phố An Ninh, phường Quang Trung, thành phố HD số tiền 12.950.000đ (mười hai triệu chín trăm lăm mươi ngàn đồng). Chia  kỷ phần: Bị cáo Q bồi thường cho bà B 7.000.000đ (bảy triệu đồng); bị cáo H bồi thường cho bà B 5.950.000đ (năm triệu chín trăm lăm mươi ngàn đồng).

Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà người phải thi hành án không thi hành khoản tiền trên thì phải chịu lãi suất chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

- Về vật chứng: áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

+ Tịch thu tiêu huỷ 01 biển kiểm số 34B2-542.46; 01 tay công bằng kim loại màu trắng, dài 08cm; 01 đầu mũi vam phá khóa bằng kim loại dài 05cm.

Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố HD với Chi cục thành phố HD ngày 25/10/2017).

Án phí: Áp dụng Điều 136 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Luật phí, lệ phí Toà án; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, quy định mức thu án phí, lệ phí Toà án. Buộc các bị cáo Q, H mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và bị cáo Q phải chịu 350.000đ án phí dân sự sơ thẩm; bị cáo H phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

Các kiến nghị: Không có.

Quyền kháng cáo: Các bị cáo Nguyễn Xuân Q, Lê Văn H và người bị hại bà Nguyễn Thị B có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền tự thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện

theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2018/HSST ngày 29/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:20/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về