Bản án 201/2019/HS-ST ngày 21/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẦU GIẤY – THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 201/2019/HS-ST NGÀY 21/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 8 năm 2019 tại Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 212/HSST ngày 02/8/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 215/2019/HSST-QĐ ngày 06/8/2019 đối với bị cáo:

TÔ VĂN T1, sinh năm 1977; ĐKHKTT: phường V, quận B, Thành phố Hà Nội; Nơi ở: như trên; Nghề nghiệp: tự do; Văn hoá: 11/12; con ông Tô Văn T2; con bà Dương Thị H; Danh chỉ bản: 000000113, lập ngày 30/01/2019, Công an quận Cầu Giấy; Tiền án, tiền sự: 02 tiền sự: Cai nghiện bắt buộc năm 2006 và Xử phạt hành chính về sử dụng trái phép ma túy năm 2014 (đã hết thời hiệu); Bắt quả tang ngày 27/01/2019; Ngày 31/01/2019 hủy bỏ tạm giữ; Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

-Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Tô Văn T2, sinh năm 1942 (bố bị cáo); ĐKHKTT: phường V, quận B, Thành phố Hà Nội. (có mặt)

-Người làm chứng: Anh Lê Đức A, sinh năm 1989; Trú tại: phố B, phường T, quận Đ, Thành phố Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 19 giờ 25 phút, ngày 27/01/2019, Tổ công tác Y15/141-CATP Hà Nội phối hợp với Công an phường Quan Hoa, Công an quận Cầu Giấy, TP Hà Nội làm nhiệm vụ tại ngã tư K thuộc phường Q, quận C, Hà Nội, phát hiện TÔ VĂN T1 đang điều khiển xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius, BKS: 29B1-383.62 có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra, Qua kiểm tra, Tổ công tác đã thu giữ: 01 túi nilon chứa tinh thể màu trắng trong túi áo khoác T1 đang mặc. Tại chỗ, T1 khai nhận là ma túy “đá” mua về để sử dụng. Tổ Công tác đã lập biên bản thu giữ, niêm phong tang vật và đưa T1 về trụ sở làm việc. Ngoài ra, Tổ Công tác còn thu giữ của T1 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius, BKS: 29B1- 383.62.

Khám xét nơi ở của T1 tại phường V, quận B, Thành phố Hà Nội không thu giữ được gì liên quan đến vụ án.

Kết luận giám định số 1011/KLGĐ-PC09 ngày 03/02/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Tinh thế màu trắng bên trong 01 túi nilon là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng: 0,104 gam.

Ti cơ quan Công an, T1 khai nhận: Do có nhu cầu sử dụng ma túy đá, khoảng 19 giờ ngày 27/01/2019, T1 một mình điều khiển xe máy Yamaha Sirius, BKS: 29B1-383.62 đi đến đầu ngõ 5 phố N, phường Q, quận C, Hà Nội để mua ma túy đá về sử dụng. Tại đây, T1 mua được của 01 nam thanh niên (T1 không biết họ tên, địa chỉ) 01 túi nilon ma túy với giá 150.000 đồng. Sau đó, T1 cất ma túy vào túi áo khoác đang mặc rồi đi tìm nơi sử dụng. Khi đi đến ngã tư K thì bị kiểm tra bắt giữ cùng tang vật như đã nêu trên. Xét nghiệm nước tiểu của T1 cho kết quả dương tính với chất ma túy.

Li khai của TÔ VĂN T1 phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với tang vật thu giữ, các tài liệu, chứng cứ khác thu thập có trong hồ sơ.

Đi tượng bán ma túy cho T1, do không xác định được nhân thân, lai lịch, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh làm rõ.

Đi với chiếc xe máy Yamaha Sirius, qua điều tra xác định: Xe không có trong cơ sở dữ liệu xe vật chứng. Đăng ký xe mang tên anh Nguyễn Văn T3, sinh năm 1963; ĐKHK: phường V, quận B, Hà Nội. Anh T3 khai nhận đã bán chiếc xe máy trên cho ông Tô Văn T2 từ ngày 18/3/2018. Ông T2 khai nhận: khoảng 18 giờ 30 phút, ngày 27/01/2019, ông T2 cho con trai là TÔ VĂN T1 mượn xe máy trên để sử dụng. Việc T1 đi mua ma túy để sử dụng, ông T2 không biết. Cơ quan điều tra đã trả lại ông T2 chiếc xe máy trên. Ông T2 đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì.

Ti bản cáo trạng số 169/CT-VKSCG ngày 31/5/2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy đã truy tố TÔ VĂN T1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Ti phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát đã công bố, thái độ ăn năn hối cải.

Ông Tô Văn T2 xác nhận đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì.

Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo T1 theo tội danh và điều luật được viện dẫn trong bản Cáo trạng số 169/CT-VKSCG ngày 31/5/2019 và đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 điều 249, điểm s khoản 1 điều 51, điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo với mức án từ 12 tháng tù đến 18 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự. Tịch thu tiêu hủy ma túy thu giữ của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về các hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Cầu Giấy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

[2]Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai người làm chứng, kết luận giám định, vật chứng thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ đủ cơ sở kết luận: Khoảng 19 giờ 25 phút, ngày 27/01/2019, tại khu vực ngã tư K thuộc phường Q, quận C, Thành phố Hà Nội, TÔ VĂN T1 đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,104 gam ma túy loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị Tổ công tác Y15/141-CATP Hà Nội phối hợp với Công an phường Quan Hoa, Công an quận Cầu Giấy, TP Hà Nội bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo T1 đã phạm vào tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào.

Ti cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn thể hiện sự ăn năn hối cải, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.

[4]Trách nhiệm hình sự và hình phạt: Bị cáo TÔ VĂN T1, sinh năm 1977, văn hóa 11/12. Bản thân bị cáo từng có 02 tiền sự liên quan đến sử dụng ma túy và cai nghiện bắt buộc. Do vậy, bị cáo đã có đủ năng lực, nhận thức để biết việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, xâm hại đến chế độ quản lý đặc biệt của Nhà nước đối với các chất ma túy, xâm hại đến trật tự an toàn xã hội. Nhưng bị cáo vẫn tàng trữ ma túy để sử dụng thể hiện thái độ coi thường pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo được thực hiện với lỗi chủ quan, cố ý. Nhân thân bị cáo có 02 tiền sự đều liên quan đến ma túy, tuy đã hết thời hiệu nhưng thể hiện nhân thân xấu. Do vậy, căn cứ tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, xét thấy cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục và đáp ứng công tác răn đe phòng ngừa chung. Khi lượng hình, Hội đồng xét xử có xét đến tình tiết giảm nhẹ của bị cáo để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Hạn tù của bị cáo kể từ ngày bắt thi hành án và được trừ đi số ngày tạm giữ từ ngày 27/01/2019 đến ngày 31/01/2019. Xét bị cáo không có nghề nghiệp, lần đầu phạm tội nên không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự.

[5]Xử lý tang vật và án phí: Số ma túy thu giữ của bị cáo cho tịch thu tiêu hủy; Chiếc xe máy Yamaha Sirius, BKS: 29B1-383.62 đã trả lại ông Tô Văn T2 nên không xét. Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: TÔ VĂN T1 – sinh năm 1977 Phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

1.Căn cứ vào: đim c khoản 1 điều 249, điểm s khoản 1 điều 51; điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: TÔ VĂN T1 15 (Mười lăm) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy ”. Hạn tù kể từ ngày bắt thi hành án và được trừ đi số ngày tạm giữ từ ngày 27/01/2019 đến ngày 31/01/2019.

2.Căn cứ vào: Điều 47 Bộ luật hình sự. Điều 106; điều 136; điều 331; điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 21, điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án và danh mục kèm theo

Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01(một) Phong bì niêm phong có chữ ký của TÔ VĂN T1 và Giám định viên Nguyễn Việt Quân, trên mép dán phong bì niêm phong, bên trong 01 phong bì niêm phong có chứa: tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilong là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng: 0,104 gam hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Cầu Giấy – Biên bản giao nhận vật chứng số 226 GN/THA-CA ngày 02/7/2019.

Bị cáo TÔ VĂN T1 phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Tô Văn T2 được kháng cáo phần liên quan trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 201/2019/HS-ST ngày 21/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:201/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cầu Giấy - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về