Bản án 200/2019/HSST ngày 25/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 200/2019/HSST NGÀY 25/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 193/2019/TLST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 199/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Tráng Thị D, sinh năm 1972 tại huyện M, tỉnh S; Nơi cư trú: Bản P, xã L, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá (học vấn): Không biết chữ; dân tộc: Mông; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Tráng A S (đã chết) và bà Vàng Thị P; bị cáo có chồng là Hạng A L, có 05 con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/9/2019. Có mặt.

- Người phiên dịch: Ông Cứ A S, sinh năm 1985. Nơi cư trú: Tiểu khu B, thị trấn N, huyện M, tỉnh Sơn La, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 09 giờ ngày 04/9/2019 Tráng Thị D một mình đi bộ từ nhà đến khu vực bản P, khu H, huyện S, tỉnh H mục đích tìm mua ma túy để sử dụng. Đến nơi D gặp một người phụ nữ dân tộc Mông, qua trao đổi D đã hỏi và mua được của người phụ nữ đó 01 gói nilon màu xanh bên trong đựng 02 viên Methamphetamine với giá 20.000đ. D cầm ma túy ở lòng bàn tay trái rồi đi bộ về nhà. Khi đi đến đường dân sinh thuộc địa phận bản P, xã L, huyện M thì gặp tổ công tác Công an huyện Mộc Châu làm nhiệm vụ kiểm tra đã phát hiện và thu giữ của D 01 gói nilon màu xanh bên trong đựng 02 viên nén màu hồng nghi là Methamphetamine. Tráng Thị D khai nhận là ma túy của D mua về mục đích để sử dụng cho bản thân. Căn cứ vào hành vi vi phạm và vật chứng thu giữ, tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng và dẫn giải Tráng Thị D về trụ sở Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu để điều tra, làm rõ.

Ngày 04/9/2019 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu và phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành mở niêm phong, xác định số lượng, khối lượng các viên nén màu hồng nghi là Methamphetamine thu giữ của Tráng Thị D được 02 viên có tổng khối lượng là 0,19 gam. Lấy 01 viên = 0,09 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu D, trưng cầu giám định xác định có phải ma túy không, loại chất ma túy gì, khối lượng của mẫu gửi giám định là bao nhiêu? Tại kết luận giám định số 1479 ngày 11/9/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận “ Mẫu gửi giám định ký hiệu D là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,09 gam. Tổng khối lượng chất ma túy thu giữ là 0,19 gam, loại chất Methamphetamine”.

Bản cáo trạng số 193/CT-VKSMC ngày 11/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu truy tố Tráng Thị D về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Tráng Thị D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng các căn cứ pháp luật xử phạt bị cáo như sau:

1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Tráng Thị D từ 18 tháng đến 21 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Về vật chứng của vụ án: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong mặt trước ghi vật chứng vụ: Tráng Thị D, bắt ngày: 04/9/2019; Bên trong đựng 01 viên = 0,1gam Methamphetamine, 01 mảnh nilon màu xanh cùng vỏ gói niêm phong ban đầu.

3. Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Tráng Thị D khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai trong quá trình điều tra.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo và trách nhiệm hình sự:

Tại phiên toà, bị cáo vẫn giữ nguyên lời khai tại Cơ quan điều tra, bị cáo không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án. Bị cáo hoàn toàn nhất trí với cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc bị cáo đã thực hiện.

Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 11 giờ 10 phút ngày 04/9/2019; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Ngày 04/9/2019 bị cáo Tráng Thị D đã có hành vi tàng trữ 02 viên Methamphetamine có khối lượng 0,19 gam mục đích để sử dụng. Hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm tới chế độ quản lý độc quyền chất ma tuý của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, làm gia tăng các tệ nạn xã hội.

Xét về nhân thân của bị cáo thấy rằng bị cáo có nhân thân xấu, là đối tượng nghiện ma tuý, bị cáo nhận thức rõ về tác hại của ma túy nhưng vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, hành vi phạm tội của bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra, cần cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cần áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[3] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay thấy rằng bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản gì có giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[4] Về vật chứng của vụ án:

Đi với 01 phong bì niêm phong mặt trước ghi vật chứng vụ: Tráng Thị D, bắt ngày: 04/9/2019; Bên trong đựng 01 viên = 0,1 gam Methamphetamine, 01 mảnh nilon màu xanh cùng vỏ gói niêm phong ban đầu, xét là vật Nhà nước cấm lưu hành và vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu huỷ.

[5] Đối với người phụ nữ dân tộc Mông đã bán ma túy cho Tráng Thị D ngày 04/9/2019 (như bị cáo khai). Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của người này, do đó không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[6] Về án phí: Tài liệu trong hồ sơ xác định, bị cáo thuộc diện hộ nghèo, bị cáo xin miễn nộp tiền án phí. Do đó, căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, bị cáo thuộc trường hợp được miễn án phí.

Xét thấy thời hạn tạm giam của bị cáo còn lại dưới 45 ngày, do đó Hội đồng xét xử ra quyết định tạm giam sau phiên tòa.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Tráng Thị D phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Tráng Thị D 21 (Hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 04/9/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, về vật chứng của vụ án: Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong mặt trước ghi vật chứng vụ: Tráng Thị D, bắt ngày: 04/9/2019; Bên trong đựng 01 viên = 0,1 gam Methamphetamine, 01 mảnh nilon màu xanh cùng vỏ gói niêm phong ban đầu.

3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Tráng Thị D được miễn toàn bộ án phí.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 200/2019/HSST ngày 25/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:200/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về