TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BA ĐÌNH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 195/2020/HS-ST NGÀY 11/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 11 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ba Đình, Tp Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 191/2020/TLHS-ST ngày 16/10/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 351/2020/QĐXXST-HS ngày 30/10/2020 đối với bị cáo:
Nguyễn G - năm sinh: 1975; HKTT và nơi ở: số 45 phố Cửa Bắc, phường Trúc Bạch, quận Ba Đình, Hà Nội; Nghề nghiệp: tự do; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Châu (đã chết) và bà Nguyễn Thị Tuyết, có vợ là Võ Thị Cương (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2009; Theo lý lịch địa phương cung cấp và DCB số 200 ngày 06/7/2020 tại công an quận Ba Đình: tiền sự, tiền án: không; Bắt tạm giữ từ ngày 03/7/2020 đến ngày 29/9/2020 thay đổi biện pháp ngăn chặn. Hiện đang bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú; Có mặt tại phiên tòa;
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 9h45 ngày 03/7/2020, Nguyễn G điều khiển xe máy Honda Wave màu xanh BKS 29R6-4937 đến khu vực phố Hòe Nhai, phường Nguyễn Trung Trực, quận Ba Đình, Hà Nội để gặp và mua 01 gói Heroin của một phụ nữ không quen biết với giá 100.000 đồng, G cầm gói ma túy rồi đi xe máy về nhà để sử dụng. Khi đi đến khu vực trước cửa nhà số 02 phố Hòe Nhai thì bị Tổ công tác Công an phường Nguyễn Trung Trực kiểm tra và thu giữ trong lòng bàn tay trái của Nguyễn G có 01 gói giấy màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng, G khai đó là heroin mua về để sử dụng.
Ngoài ra, tổ công tác còn thu giữ của G: 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia 150 màu đen có IMEI: 357328082742929 đã qua sử dụng bên trong có 01 SIM đi ện thoại, 01 xe máy Honda Wave màu xanh BKS 29R6-4937 (số khung 074883, số máy 0074602) (BL70).
Tại bản Kết luận giám định số 6008/KLGĐ-PC09 ngày 10/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hà Nội kết luận (BL 76): - Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy màu trắng là ma tuý Heroin, khối lượng 0,223 gam.
Lời khai nhận tội của Nguyễn G phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, hiện trường vụ án và các tài liệu khác có trong hồ sơ (BL 29 đến 38).
Đối với người phụ nữ bán ma túy cho G, Cơ quan điều tra đã tiếng hành xác minh nhưng không xác định được con người cụ thể nên không có căn cứ để xử lý.
Đối với chiếc xe máy Honda Wave màu xanh BKS 29R6-4937 (số khung 074883, số máy 0074602) quá trình điều tra xác định được là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị Yến (sinh năm 1964, địa chỉ: số 22 ngõ 57 Phúc Tân, phường Phúc Tân, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội). Chồng chị Yến là anh Nguyễn Văn Hậu cho G mượn xe máy nhưng không biết việc G sử dụng xe máy để đi mua ma túy nên Cơ quan điều tra trả lại chiếc xe máy trên cho chị Yến (BL 57 đến 69).
Tại bản cáo trạng số 188/CT-VKSBĐ ngày 09/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình, bị cáo Nguyễn G bị truy tố về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn G khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi tàng trữ trái phép 0,223 gam heroin để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như bản cáo trạng đã nêu.
Sau khi phân tích tính chất, mức độ, hậu quả hành vi cũng như nhân thân bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 điều 51, điều 38, điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Xử phạt: Nguyễn G từ 12 đến 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.
Về vật chứng: tịch thu tiêu hủy số ma túy 0,223 gam heroin là vật cấm lưu hành. Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động Nokia 150 màu đen vì không liên quan đến vụ án nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội, bị cáo không có tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Ba Đình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có có ý kiến hoặc không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, vật chứng thu giữ được và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ, đấy đủ cơ sở để kết luận: khoảng 10h ngày 03/7/2020, tại khu vực trước cửa nhà số 2 phố Hòe Nhai, quận Ba Đình, Hà Nội, bị cáo Nguyễn G đã có hành vi giấu giữ trong lòng bàn tay trái 01 gói bên trong chứa chất bột màu trắng là ma túy loại Heroin có khối lượng 0,223 gam với mục đích sử dụng. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm đến trật tự , an toàn xã hội. Ma tuý là chất gây nghiện, chất hướng thần và là nguyên nhân phát sinh nhiều tệ nạn xã hội. Bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý phạm tội, do đó cần thiết phải xử phạt n ghiêm minh để giáo dục bị cáo.
[4] Về nhân thân: bị cáo chưa có tiền án tiền sự.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, nhân thân bị cáo chưa có tiền án tiền sự, nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[6] Căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian tương xứng với tính chất, mức độ hậu quả hành vi của bị cáo mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung.
[7] Về hình phạt bổ sung: Tài liệu có trong hồ sơ cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.
[8] Về đối tượng bán ma túy cho G, cơ quan điều tra không làm rõ được lai lịch nên không có cơ sở xử lý, Hội đồng xét xử không xem xét.
[9] Về vật chứng: đã bàn giao cho Chi cục thi hành án dân sự quận Ba Đình gồm: 1 phong bì niêm phong bên trong có chứa 0,223 gam Heroin đây là vật cấm lưu hành nên tịch thu tiêu huỷ, trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động Nokia 150 máu đen vì không liên quan đến vụ án nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án, theo khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[10] Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Căn cứ Điều 106, Điều 299, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016;
Tuyên bố bị cáo Nguyễn G phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn G 14 (mười bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 03/7/2020 đến ngày 29/9/2020.
Về vật chứng: tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong (bên trong có 0,223 gam heroin), trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 150 màu đen có IMEI: 357328082742929 đã qua sử dụng bên trong có 01 SIM điện thoại nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án. Vật chứng hiện Chi cục Thi hành án dân sự quận Ba Đình đang quản lý theo biên bản bàn giao vật chứng số 08 ngày 21/10/2020.
Bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 195/2020/HS-ST ngày 11/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 195/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ba Đình - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về