Bản án 193/2019/HS-ST ngày 22/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 193/2019/HS-ST NGÀY 22/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 10 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự sơ thẩm thụ lý số: 191/2019/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 205/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Võ Tuấn K, sinh năm 1991, tại Thành phố Hồ Chí Minh; giới tính: Nam; nơi ĐKHKTT: 39/1A Lý Chiêu Hoàng, Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: B11/22C ấp 2, xã T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; họ và tên cha: Lê Anh S (Chết); họ và tên mẹ: Võ Thị T, sinh năm 1967; bị cáo chưa có vợ, con.

Tin án, tiền sự: Không: Tạm giam từ ngày 30/5/2019, bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Huỳnh Công Đ, sinh năm 1975; nơi cư trú: 269 Bình Long, phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

2. Bà Võ Thị T, sinh năm 1967; nơi cư trú: 39/1A Lý Chiêu Hoàng, Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt).

Người bào chữa: Luật sư Nguyễn Trung C – Văn phòng luật sư T N thuộc đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh là người bào chữa chỉ định cho bị cáo (Có mặt) Địa chỉ: 90C Lò Siêu, Phường N, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp cho bị cáo: Bà Võ Thị T, sinh năm 1967 là mẹ ruột của bị cáo.

Nơi cư trú: 39/1A Lý Chiêu Hoàng, Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 9 giờ 50 phút ngày 30/5/2019, Công an xã Lê Minh Xuân kết hợp với bảo vệ Bệnh viện Tâm thần Thành phố Hồ Chí Minh - Cơ sở Lê Minh Xuân, tại địa chỉ F4/12, ấp 6, xã Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh, tiến hành kiểm tra Lê Võ Tuấn K tại cổng bảo vệ. Qua kiểm tra, phát hiện trong ổ bánh mì mà K đang cầm trên tay phải có 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể rắn không màu. K khai nhận tinh thể rắn nêu trên là ma túy tổng hợp, mục đích đem vào Bệnh viện để sử dụng cùng với bạn. Vụ việc trên được Công an xã Lê Minh Xuân tiến hành lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang đối với K, thu giữ vật chứng, sau đó lập hồ sơ chuyển Lê Võ Tuấn K cùng tang vật đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh để điều tra xử lý. Qua test ma tuý cho thấy K có sử dụng ma tuý.

Tại bản Kết luận giám định số 1210/KLGĐ-H ngày 05/6/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

Tinh thể không màu trong 01 gói nylon hàn kín niêm phong, thu giữ của Lê Võ Tuấn K, qua giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1711g, loại Methamphetamine, sau giám định còn lại là 0,1150g.

Tại bản Kết luận giám định số 3775/KLGĐ-H ngày 14/08/2019 của Trung tâm Pháp y Tâm thần khu vực Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

- Về y học: Trước, trong và cho đến hiện tại thì bị can Lê Võ Tuấn K có rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng chất kích.

- Về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: Trước, trong và cho đến hiện tại, bị can Lê Võ Tuấn K có hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh, Lê Võ Tuấn K khai nhận: Bản thân là người nghiện và sử dụng ma tuý tổng hợp từ năm 2014. Trong thời gian sử dụng ma tuý, K nhiều lần bị ảo giác nên gia đình đưa vào Bệnh viện Tâm thần Thành phố Hồ Chí Minh - Cơ sở Lê Minh Xuân để điều trị 6 đợt từ ngày 23/12/2018 đến ngày 18/01/2019 thì xuất viện. Trong quá trình điều trị K có quen biết với Nguyễn Ngọc T và Nguyễn Văn Đ (hai người điều trị tâm thần chung với K), cả ba thống nhất với nhau nếu ai ra viện trước thì mua ma tuý vào thăm những người còn lại để sử dụng chung. Do đó, ngày 30/5/2019, K đi đến khu vực Phường 14, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh mua 01 gói ma tuý đá với giá 200.000 đồng của một người phụ nữ (không rõ lai lịch). Sau khi mua được gói ma tuý, K mua 01 ổ bánh mì bỏ gói ma tuý vào bên trong rồi điều khiển xe mô tô biển số 52K6-7555 đi đến Bệnh viện Tâm thần Cơ sở Lê Minh Xuân để thăm Trung và Đương thì bị lực lượng bảo vệ Bệnh viện phối hợp Công an Lê Minh Xuân kiểm tra phát hiện bắt quả tang như đã nêu trên.

Qua điều tra xác minh được biết:

Đối với Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1978, cư trú tại địa chỉ: 19/11, Khu phố 4, thị trấn N, Thành phố Hồ Chí Minh có điều trị tại Bệnh viện Tâm thần Cơ sở Lê Minh Xuân từ ngày 28/12/2018 và xuất viện ngày 08/3/2019. Đ đã bỏ địa phương đi đâu không rõ từ năm 2010 nên Cơ quan điều tra chưa tiến hành làm việc được với Đ.

Đối với Nguyễn Văn T, sinh năm 1971, cư trú tại địa chỉ: 87 Đỗ Thị Thâm, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh có điều trị tại Bệnh viện Tâm thần Cơ sở Lê Minh Xuân từ ngày 21/01/2019 và xuất viện ngày 14/3/2019. Nguyễn Văn T khai nhận không quen biết với Nguyễn Văn Đ và Lê Võ Tuấn K. Trung không hứa hẹn gì với K việc mua ma tuý vào thăm T và không liên quan gì đến số ma túy của K bị Công an thu giữ vào ngày 30/5/2019.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 (một) gói nylon hàn kín chứa tinh thể không màu qua giám định có khối lượng 0,1711gram là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine, sau giám định còn lại là 0,1150g; 01 (một) ổ bánh mì.

- 01 (một) xe mô tô hiệu Honda loại Dream biển số 52K6-7555. Qua xác minh được biết chiếc xe này do ông Huỳnh Công Đ đứng chủ sở hữu. Ông Đ bán chiếc xe này lại cho bà Võ Thị T (mẹ ruột Tuấn K) vào năm 2006. Khi mua bán xe không có làm Giấy sang tên chủ sở hữu. Do K không có xe làm phương đi lại nên bà T đưa xe máy này cho K sử dụng; (K khai nhận bà T không biết K sử dụng xe vào việc phạm tội, quá trình sử dụng do lốc máy bị hư nên có vào tiệm sửa chữa và việc xe có số máy hay không thì K không rõ), qua giám định số máy: Không rõ, số khung: LFA10002000194896.

Các vật chứng này, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã ra Quyết định chuyển vật chứng đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Chánh tạm giữ chờ xử lý.

Tại Cáo trạng số 197/CT-VKS ngày 25/9/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Lê Võ Tuấn K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Võ Tuấn K đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình giống như lời khai tại Cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đồng thời thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh truy tố bị cáo. Lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa, Vị đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa, sau khi nêu tóm tắt nội dung vụ án, phân tích tính chất của vụ án những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị xử phạt bị cáo Lê Võ Tuấn K từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017) và xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

Luật sư bào chữa chỉ định cho bị cáo trình bày: Luật sư thống nhất với tội danh và điều luật Viện kiểm sát truy tố bị cáo, luật sư nêu các tình tiết sau để Hội đồng xét xử xem xét giảm một phần hình phạt cho bị cáo. Bị cáo phạm tội lần đầu, bản thân chưa có tiền án, tiền sự; số lượng ma tuý thu giữ không nhiều; tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Cũng như hiện tại, bị cáo bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, ảo giác do sử dụng ma tuý. Từ những phân tích trên luật sư đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo có cơ hội làm lại cuộc đời.

Bà Võ Thị Trinh là mẹ ruột của bị cáo thống nhất với bào chữa của luật sư và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bình Chánh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản ghi lời khai, bị cáo trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Lê Võ Tuấn K tại tòa là phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra (BL: 166 - 182); phù hợp với các chứng cứ, tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án. Vụ án còn được chứng minh qua hoạt động điều tra như biên bản lấy lời khai, thu giữ vật chứng, kết quả giám định vật chứng, biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang... Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Ngày 30/5/2019, bị cáo Lê Võ Tuấn K đã có hành vi tàng trữ 0,1711 gram ma tuý ở thể rắn, loại Methamphetamine (Theo Kết luận giám định số 1210/KLGĐ-H ngày 05/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành Phố Hồ Chí Minh) với mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện bắt quả tang vào lúc 09 giờ 50 phút cùng ngày, tại trước cổng bệnh viện Tâm thần Thành phố Hồ Chí Minh - Cơ sở Lê Minh Xuân tại địa chỉ F4/12, ấp 6, xã Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

[3] Với những tình tiết được chứng minh tại phiên toà hôm nay, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lê Võ Tuấn K đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); nên Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố bị cáo với tội danh nêu trên là đúng người, đúng tội.

[4] Tội phạm do bị cáo gây ra là nguy hại cho xã hội, mặc dù bị cáo biết rõ ma túy là loại biệt dược được Nhà nước thống nhất quản lý hết sức chặt chẽ, mọi hành vi liên quan đến ma túy từng mức độ sẽ bị xử lý hình sự. Bị cáo là người đã trưởng thành, nhận thức được việc làm của mình là vi phạm pháp luật. Song chỉ vì muốn có ma tuý sử dụng cho bản thân nên bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương là tiền đề phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Do đó, khi lượng hình cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn một thời gian tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo thì mới có tác dụng răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

[5] Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ rõ ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình, chưa có tiền án, tiền sự, bị cáo bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi nên Hội đồng xét xử áp dụng Điểm s, q Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

[6] Ý kiến của luật sư và người đại diện hợp pháp cho bị cáo có những tình tiết phù hợp với nội dung vụ án và các chứng cứ, tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử chấp nhận một phần.

Đối với ý kiến luật sư đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 cho bị cáo được hưởng án treo là không có căn cứ; bỡi lẽ bị cáo là người nghiện ma tuý từ năm 2014, dẫn đến bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, đã được điều trị tại Bệnh viện tâm thần nhiều đợt. Do đó, cần thiết buộc bị cáo chấp hành hình phạt tù có thời hạn một thời gian để tạo điều kiện cho bị cáo từ bỏ ma tuý, sau này tái hòa nhập cộng đồng để bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

[7] Đối với Nguyễn Văn Đ và Nguyễn Ngọc T, qua điều tra xác định Đ và T không có liên quan đến ma tuý mà bị cáo Tuấn K bị bắt giữ nên không căn cứ để xử lý. Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Đối với người phụ nữ (không rõ lai lịch) có hành vi bán ma túy cho bị cáo, hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch nên Cơ quan điều tra đang truy xét, khi nào phát hiện được sẽ điều tra xử lý sau.

[8] Về xử lý vật chứng vụ án:

Đối với 01 (một) gói nylon hàn kín chứa tinh thể không màu qua giám định có khối lượng 0,1711gram là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine, sau giám định còn lại là 0,1150g và 01 (một) ổ bánh mì; đây là vật cấm tàng trữ, vật không có giá trị nên căn cứ vào Điểm a, c Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 (một) xe mô tô hiệu Honda loại Dream biển số 52K6-7555. Qua điều tra xác định xe này do ông Huỳnh Công Đ đứng tên chủ sở hữu. Ông Đ bán chiếc xe này lại cho bà Võ Thị T (mẹ ruột bị cáo Tuấn K) vào năm 2006. Khi mua bán xe không có làm Giấy sang tên chủ sở hữu. Do K không xe làm phương đi lại nên bà T đưa xe máy này cho K sử dụng; (K khai nhận bà T không biết K sử dụng xe vào việc phạm tội, quá trình sử dụng do lốc máy bị hư nên có vào tiệm sửa chữa và việc xe có số máy hay không thì K không rõ), qua giám định số máy: Không rõ, số khung: LFA10002000194896. Nghĩ trả lại xe này cho bà T theo quy định tại Khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự là phù hợp.

[9] Về hình phạt bổ sung: Ở dạng tội phạm này ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, hiện tại bị cáo bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, cũng như không có tài sản riêng nên miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại tại Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 249; các Điểm s, q Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Căn cứ vào các Điểm a, c Khoản 2; Điểm b Khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử phạt bị cáo Lê Võ Tuấn K 01 (Một) năm 06 (Sáu) tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Thời hạn tù tính từ ngày 30/5/2019.

Về vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói nylon hàn kín chứa tinh thể không màu qua giám định có khối lượng 0,1711gram là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine, sau giám định còn lại là 0,1150g và 01 (một) ổ bánh mì.

Trả lại cho bà Võ Thị T 01 (một) xe mô tô hiệu Honda loại Dream biển số 52K6- 7555 (số máy: Không rõ, số khung: LFA10002000194896).

(các vật chứng này hiện đang giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh theo Biên bản giao, nhận vật chứng lập vào 15 giờ 30 phút ngày 21 tháng 10 năm 2019 giữa Công an huyện Bình Chánh và Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Bình Chánh).

Về án phí: Buộc bị cáo chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo, luật sư bào chữa chỉ định, người đại diện hợp pháp của bị cáo được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, tính kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, tính từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

307
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 193/2019/HS-ST ngày 22/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:193/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về