Bản án 193/2019/HS-ST ngày 19/11/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 193/2019/HS-ST NGÀY 19/11/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 11 năm 2019, tại Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 192/2019/TLST-HS ngày 01 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 195/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Văn Đ (tên gọi khác: Không); sinh ngày 02/4/1983 tại Hà Tĩnh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: thôn 3, xã S, huyện H, tỉnh H. Chỗ ở: Khu Đô thị N, thôn K, thành phố L; nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 7/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; con ông Lê Đình T, sinh năm 1946 và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1948 (đã chết). Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 04/8/2019 đến nay; có mặt.

- Bị hại: Bà Vi Thị V, sinh năm 1964. Nơi cư trú: Số 6, phố Đ, khu Đô thị P, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Nông Hồng C, sinh năm 1981. Nơi cư trú: Số 03, tổ 3, khối 1, thị trấn C, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng cuối năm 2014 qua chương trình dạy học trực tuyến, Lê Văn Đ quen biết và hợp tác kinh doanh với bà Vi Thị V. Quá trình kinh doanh Lê Văn Đ và bà Vi Thị V thỏa thuận, Lê Văn Đ là người trực tiếp kinh doanh thẻ học trực tuyến còn bà Vi Thị V bỏ vốn để đầu tư và kiểm tra, giám sát. Do kinh doanh thua lỗ, để bà Vi Thị V tiếp tục hợp tác kinh doanh, năm 2017, Lê Văn Đ nói dối với bà Vi Thị V xin được vào làm ở Bộ tư lệnh Cảnh sát Cơ động, Lê Văn Đ được chuyển về công tác tại Tiểu đoàn Cảnh sát Cơ động số II, trụ sở tại thôn N, xã H, thành phố L. Khoảng tháng 01/2018 do cần tiều tiêu sài cá nhân, Lê Văn Đ nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tiền của bà Vi Thị V. Lê Văn Đ vào mạng xã hội đặt mua trang phục Cảnh sát, quân tư trang và lập sổ ghi chép về hoạt động của Lê Văn Đ trong ngành Công an, sau đó chụp hình ảnh mặc trang phục Cảnh sát đưa cho bà Vi Thị V xem để tạo niềm tin, trong khoảng thời gian từ tháng 01/2018 đến tháng 11/2018 Lê Văn Đ đã 04 lần lừa đảo chiếm đoạt tiền của bà Vi Thị V, cụ thể:

Lần thứ nhất: Khoảng đầu tháng 01/2018, tại phòng thuê trọ của Lê Văn Đ ở số 71, đường N, thị trấn C, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, Lê Văn Đ nói với bà Vi Thị V đang cần số tiền 330.000.000 đồng để xin đến làm việc tại Trạm kiểm soát liên ngành D, tỉnh Lạng Sơn. Khi đi làm ở đây có tiền sẽ trả lại cho bà Vi Thi V. Tại phòng trọ của Lê Văn Đ bà Vi Thị V đã đồng ý và đưa cho Lê Văn Đ số tiền 330.000.000 đồng, khi có được tiền Lê Văn Đ tiêu sài cá nhân hết.

Lần thứ hai: Ngày 26/10/2018 tại phòng thuê trọ của mình, Lê Văn Đ nói dối bà Vi Thị V cần tiền để trả nợ ông Linh cùng công tác với Lê Văn Đ tại đơn vị Cảnh sát cơ động và bảo bà Vi Thị V cho vay. Bà Vi Thị V đồng ý và đưa tiền cho Lê Văn Đ số tiền 60.000.000 đồng tại phòng trọ địa chỉ số 71, đường N, thị trấn C, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, khi có được tiền Lê Văn Đ tiêu sài cá nhân hết.

Lần thứ ba: Khoảng đầu tháng 11/2018, tại nhà của bà Vi Thị V, khu Đô thị Nam H I, xã H, thành phố L, Lê Văn Đ nói dối bà Vi Thị V cần số tiền 50.000.000 đồng đưa cho ông Viên là tiểu đoàn trưởng để xin được bổ nhiệm chức danh Chính trị viên. Bà Vi Thị V đã đồng ý và đưa tiền cho Lê Văn Đ số tiền 50.000.000 đồng tại nhà của bà Vi Thị V, khi có được tiền Lê Văn Đ tiêu sài cá nhân hết.

Lần thứ tư: Khoảng giữa tháng 11/2018, tại nhà của bà Vi Thị V ở khu Đô thị N, xã H, thành phố L, Lê Văn Đ tiếp tục nói dối bà Vi Thị V cần số tiền 10.000.000 đồng nộp tiền lệ phí đi học lớp bồi dưỡng cán bộ tại Học viện Cảnh sát nhân dân. Bà Vi Thị V đồng ý đưa cho Lê Văn Đ số tiền 10.000.000 đồng tại nhà của bà Vi Thị V và khi có được tiền Lê Văn Đ tiêu sài cá nhân hết.

Sau khi bị Lê Văn Đ chiếm đoạt tổng số tiền 450.000.000 đồng, bà Vi Thị V nhiều lần yêu cầu Lê Văn Đ trả lại tiền nhưng Lê Văn Đ nói dối, lấy lý do thay đổi Trạm trưởng, Trạm kiểm soát liên ngành D chưa được chia tiền nên chưa trả bà Vi Thị V. Do lo sợ bị phát hiện hành vi giả danh Công an để chiếm đoạt tiền của bà Vi Thị V, ngày 17/7/2019 Lê Văn Đ hỏi mượn xe ô tô nhãn hiệu Mazda BT 50, biển kiểm soát 12C – 057xx của bà Vi Thị V nói dối để lên trạm kiểm soát liên ngành D lấy tiền được chia trả lại bà Vi Thị V. Bà Vi Thị V đồng ý cho Lê Văn Đ mượn xe, Lê Văn Đ mang xe mượn được đi Hà Tĩnh chơi. Ngày 03/8/2019, nhận được tin báo của quần chúng nhân dân về việc phát hiện đối tượng có dấu hiệu giả danh Công an, nghỉ tại nhà nghỉ T, xã T, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh. Tổ công tác Công an thành phố Hà Tĩnh tiến hành kiểm tra hành chính nhà nghỉ T phát hiện Lê Văn Đ và Nông Hồng C đang thuê phòng nghỉ tại đây. Qua kiểm tra thu giữ của Lê Văn Đỉnh: 01 bộ Quân phục cảnh sát nhân dân và các công cụ hỗ trợ khác, 04 sổ tay ghi chép thông tin công tác của lực lượng Công an và xe ô tô biển kiểm soát 12C – 057xx.

Không thấy Lê Văn Đ trả tiền như đã hẹn, ngày 02/8/2019 bà Vi Thị V gửi đơn tố giác hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Lê Văn Đ đến Công an thành phố L. Ngày 04/8/2019 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố L đã thi hành lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Lê Văn Đỉnh.

Ngày 05/8/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố L tiến hành khám xét tại nơi ở của Lê Văn Đ khu Đô thị Nam H, thôn K, xã H thành phố L thu giữ 02 bộ trang phục Cảnh sát nhân dân, 13 quyển sổ ghi chép hoạt động lực lượng Công an.

Quá trình điều tra Lê Văn Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân.

Tại bản cáo trạng số 189/CT-VKS ngày 29 tháng 10 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố L đã truy tố bị cáo Lê Văn Đ về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Văn Đ thừa nhận hành vi phạm tội của bản thân như nội dung Cáo trạng đã truy tố: Bị cáo đã 04 lần thực hiện hành vi chiếm đoạt tiền của bà của bà Vi Thị V; thời gian khoảng từ tháng 01/2018 đến tháng 11/2018, bị cáo đã chiếm đoạt của bà Vi Thị V tổng số tiền là 450.000.000 đồng; cụ thể lần thứ nhất tại phòng trọ của Lê Văn Đ tại số 71, đường N, thị trấn C, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, bị cáo đưa ra thông tin cần tiền để xin đến làm việc tại Trạm kiểm soát liên ngành D, tỉnh Lạng Sơn, bà Vi Thị V đã đưa cho bị cáo số tiền 330.000.000 đồng. Lần thứ hai, vào ngày 26/10/2018 tại phòng thuê trọ của mình, bị cáo Lê Văn Đ nói dối bà Vi Thị V cần tiền để trả nợ ông L cùng công tác với Lê Văn Đ tại đơn vị Cảnh sát cơ động và bảo bà Vi Thị V cho vay số tiền 60.000.000 đồng. Lần thứ ba: Khoảng đầu tháng 11/2018, tại nhà của bà Vi Thị V, khu đô thị N, xã H, thành phố L, bị cáo nói dối bà Vi Thị V cần đưa cho ông Viên là tiểu đoàn trưởng để xin được bổ nhiệm chức danh Chính trị viên, bà Vi Thị V đã đưa cho bị cáo số tiền 50.000.000 đồng. Lần thứ tư: Khoảng giữa tháng 11/2018, tại nhà của bà Vi Thị V ở khu đô thị N, xã H, thành phố L, bị cáo tiếp tục nói dối bà Vi Thị V cần tiền nộp lệ phí đi học lớp bồi dưỡng cán bộ tại Học viện Cảnh sát nhân dân, bà Vi Thị V đưa cho bị cáo số tiền 10.000.000 đồng.

Tại phiên tòa bị hại bà Vi Thị V, trình bày: Do quen biết với Lê Văn Đ từ khoảng tháng 11 năm 2015 qua việc bán thẻ học online trên mạng tại Lạng Sơn. Sau đó bà cùng kinh doanh chung với Lê Văn Đ, do làm ăn kinh doanh không hiệu quả, thua lỗ nên Lê Văn Đ bảo với bà không bán được hàng sẽ đi làm để trả dần tiền cho bà. Đến tháng 01 năm 2018 Lê Văn Đ nói với bà cần tiền để xin làm việc tại Trạm kiểm soát liên ngành D, tỉnh Lạng Sơn nên bà đã đưa cho Lê Văn Đ số tiền 330.000.000 đồng. Lần thứ hai, vào ngày 26/10/2018 tại phòng thuê trọ của Lê Văn Đ nói dối bà cần tiền để trả nợ ông L cùng công tác với Lê Văn Đ tại đơn vị Cảnh sát cơ động bảo bà đưa cho Lê Văn Đ số tiền 60.000.000 đồng. Lần thứ ba: Khoảng đầu tháng 11/2018, tại nhà của bà ở khu Đô thị N, xã H, thành phố L, Lê Văn Đ nói cần đưa cho ông V là tiểu đoàn trưởng để xin được bổ nhiệm chức danh Chính trị viên, bà đã đưa cho Lê Văn Đ số tiền 50.000.000 đồng.

Lần thứ tư: Khoảng giữa tháng 11/2018, cũng tại nhà của bà ở khu Đô thị N, xã H, thành phố L, Lê Văn Đ tiếp tục nói với bà cần tiền nộp lệ phí đi học lớp bồi dưỡng cán bộ tại Học viện Cảnh sát nhân dân, bà đưa cho Lê Văn Đ số tiền 10.000.000 đồng. Bà đã đưa cho Lê Văn Đ tổng cộng 4 lần số tiền là 450.000.000 đồng, bà yêu cầu Lê Văn Đ có trách nhiệm trả lại toàn bộ số tiền trên cho bà.

Tại cơ quan điều tra người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, chị Nông Hồng C trình bày: Ngày 17/7/2019 chị được Lê Văn Đ gọi điện thoại rủ chị và chị Hoàng Thị Nga đi vào chơi ở thành phố H, chị và chị Hoàng Thị N đồng ý. Lúc vào thành phố H, đi xe ô tô Mazda BT50 màu bạc chị không nhớ biển kiểm soát do Lê Văn Đ điều khiển, chị thấy Lê Văn Đ mặc quần áo cảnh sát, có đầy đủ ve hàm, biển tên Lê Văn Đ, hàm có gắn ba ngôi sao. Đến sáng ngày 03/8/2019 chị đang ở phòng nghỉ chuẩn bị đi về thì có lực lượng Công an vào kiểm tra nghi ngờ Lê Văn Đ mạo danh công an nên đã đưa chị và Lê Văn Đ về trụ sở Công an làm việc.

Tại phiên tòa đại điện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lê Văn Đ phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174; Điều 38; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Lê Văn Đ từ 09 năm đến 10 năm tù. Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về dân sự: Bị cáo Lê Văn Đ phải có trách nhiệm bồi thường cho bị hại bà Vi Thị V tổng số tiền là 450.000.000đ (bốn trăm năm mươi triệu đồng).

Về xử lý vật chứng: Đối với toàn bộ trang phục là quần, áo lực lượng Công an nhân dân, ve, hàm, mũ, giầy, tất, bộ đàm, còng số 8, mũ lưỡi trai, mũ kê pi, thắt lưng, mũ bảo hiểm, túi đựng giấy ảnh, khung ảnh, sách giáo trình, sổ sách ghi chép...liên quan đến việc phạm tội và không có giá trị sử dụng, cần tịch thu để tiêu hủy. Đối với 01 (một) điện thoại Iphone 7 Plus màu đen, IMEI 359172077223810, máy đã qua sử dụng, màn hình bị nứt rạn, ốp ngoài màu đen có dòng chữ “SHENGO”, liên quan đến việc phạm tội cần tịch thu để hóa giá sung Ngân sách Nhà nước. Đối chiếc xe ô tô hiệu mazda BT 50, biển kiểm soát 12C - 057xx, bị cáo mượn của bà Vi Thị V, Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho bà Vi Thị V là chủ sở hữu tài sản; đối với 01 điện thoại Sam Sung A9; 01 thẻ ngân hàng AGRIBANK mang tên Nông Hồng C, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Nông Hồng C nên không đề cập xử lý. Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận tại phiên tòa. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại và phù hợp các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà. Có đủ cơ sở để kết luận: Trong khoảng thời gian từ tháng 01/2018 đến tháng 11/2018, bằng thủ đoạn gian dối, đưa ra thông tin bản thân là cán bộ ngành Công an cần tiền để lo chuyển chỗ công tác, nộp lệ phí đi học nên bà Vi Thị V tin tưởng đã 04 lần đưa tiền cho bị cáo, tổng số tiền bị cáo Lê Văn Đ chiếm đoạt của bà Vi Thị V là 450.000.000 đồng. Như vậy, có căn cứ xác định bị cáo phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174 của Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L truy tố bị cáo Lê Văn Đ về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại điểm khoản 3 Điều 174 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mật trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực, bị cáo nhận thức được việc chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, vì vậy hành vi của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.

[3] Về nhân thân và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan Điều tra và cũng như tại phiên tòa bị cáo Lê Văn Đ đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Sau khi sự việc xảy ra bị hại bà Vi Thị V có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo 04 lần thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của bà Vi Thị V, do đó bị cáo có tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về bồi thường dân sự: Tại phiên tòa bị cáo nhất trí bồi thường cho bị hại cho bà Vi Thị V tổng số tiền là 450.000.000đ (bốn trăm năm mươi triệu đồng).

[5] Xét lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, mức hình phạt cũng như tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, nhân thân, bồi thường dân sự, hướng xử lý vật chứng đúng quy định nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về hình phạt chính: Đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, hậu quả thiệt hại gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trên cơ sở đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt đối với bị cáo. Xét thấy, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để bị cáo có thời gian tập trung cải tạo và trở thành công dân có ích cho gia đình, xã hội, đồng thời cũng đảm bảo tính chất răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

[7] Về hình phạt bổ sung: Tại biên bản xác minh ngày 20/8/2019 của Công an xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh thể hiện bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản gì nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Đối chiếc xe ô tô hiệu mazda BT 50, biển kiểm soát 12C – 057xx ngày 08/10/2019, Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho bà Vi Thị V là chủ sở hữu tài sản. Đối với 01 điện thoại Sam Sung A9, 01 thẻ ngân hàng AGRIBANK mang tên Nông Hồng C ngày 08/10/2019 Cơ quan điều tra trả lại điện thoại và thẻ ngân hàng cho chị Nông Hồng C, do đó Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

[9] Về xử lý vật chứng:

[9.1] Đối với 01 (một) bộ trang phục thường dùng xuân hè của lực lượng Cảnh sát nhân dân, áo có gắn hàm thượng úy và phù hiệu kết hợp cấp hiệu thượng úy và bộ phù hiệu của lực lượng Công an nhân dân;

[9.2] 01 (một) bộ cấp hàm trung úy và bộ phù hiệu kết hợp cấp hiệu thượng úy và bộ phù hiệu của lực lượng Công an nhân dân;

[9.3] 01 (một) khóa số 8, trên mặt khóa có dòng chữ “BỘ CÔNG AN KC”;

[9.4] 01 (một) bộ đàm có kích thước 22,5 x 4,5 x 6cm, trên có dòng chữ “MOTOROLA”;

[9.5] 01 (một) dùi cui điện, trên có dòng chữ “Shen Sou Fang Wei Qi TW-09 MADE IN CHINA”, phía ngoài có vỏ giả màu đen;

[9.6] 01 (một) bật lửa ga hình khẩu súng màu đen, trên có dòng chữ “DESERT EAGLE PISTOL”;

[9.7] 01 (một) quyển sổ có kích thước 21,3 x 15,5 x 1,7cm, phía ngoài có dán dòng chữ “SỔ CÔNG TÁC”, trang thông tin có viết dòng chữ “BỘ TƯ LỆNH, CSCĐ, TIỂU ĐOÀN, CSCĐ.(E22)K20”, trong đó có 20 trang ghi nội dung thông tin”;

[9.8] 01 (một) quyển sổ có kích thước 21,3 x 15,5 x 1,7cm, phía ngoài có dán dòng chữ “SỔ TRINH SÁT”, trong đó có 06 trang có ghi nội dung thông tin”;

[9.9] 01 (một) quyển sổ có kích thước 21,3 x 15,5 x 1,7cm, phía ngoài có dán dòng chữ “SỔ TRINH SÁT AN”, trang thông tin có viết dòng chữ “BT LỆNH, CSCĐ(K20), đơn vị VI, TRINH SÁT”, trong đó có 04 trang có ghi nội dung thông tin”;

[9.10] 01 (một) quyển vở học sinh có kích thước 17 x 24 x 0,5cm, phía ngoài có dán dòng chữ “TIÊU ĐOÀN CSCĐ ĐÔNG BẮC (2), Chính trị AN NINH ND HT, Tập huấn nghiệp vụ, trong có 05 trang có ghi nội dung thông tin”.

[9.11] 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 184111051 mang tên Lê Văn Đ. [9.12] 01 (một) giấy phép lái xe hạng A1 mang tên Lê Văn Đ.

[9.13] 01 (một) giấy phép lái xe hạng B2 mang tên Lê Văn Đ.

[9.14] 01 (một) thẻ ngân hàng BIDV số 9704180058677204 mang tên Lê Văn Đ.

[9.15] 01 (một) thẻ ngân hàng Vietinbank số 9704155233361817 mang tên Lê Văn Đ.

[9.16] 01 (một) điện thoại Iphone 7 Plus màu đen, IMEI 359172077223810, máy đã qua sử dụng, màn hình bị nứt rạn, ốp ngoài màu đen có dòng chữ “SHENGO”.

[9.17] 03 (ba) quần dài Cảnh sát [9.18] 02 (hai) áo vest thu đông Cảnh sát;

[9.19] 01 (một) thắt lưng, mặt thắt lưng in nổi chữ CA.

[9.20] 01 (một) bộ quần áo dài tay xuân hè của lực lượng Cảnh sát Cơ động.

[9.21] 01 (một) áo dài tay xuân hè Cảnh sát.

[9.22] 01 (một) mũ lưỡi trai màu đen Cảnh sát cơ động.

[9.23] 01 (một) mũ kê pi cảnh sát, mũ có gắn Công an hiệu.

[9.24] 01 (một) mũ bảo hiểm màu xanh đậm có kính che, hai bên có in chữ “CSCĐ”, phía trước mũ có gắn Công an hiệu.

[9.25] 01 (một) túi nilon màu xanh bên trong có: một dây lưng quai chéo của lực lượng Công an nhân dân, một áo phông cộc tay có cổ màu trắng, phía trước bên trái ngực và phía sau áo có in dòng chữ”BTL.CSCĐ.Đông Bắc II CA NHÂN DÂN” màu đỏ.

[2.26] 01 (một) áo xuân hè cộc tay cảnh sát.

[2.27] 01 (một) áo phông cộc tay màu đen có cổ, phía bên trái mặt trước ngực áo có in logo Công an hiệu ghi chữ “Bộ công an, Công an nhân dân”; mặt sau lưng có in dòng chữ “POLICE”.

[9.28] 22 (hai mươi hai) chiếc tất màu xanh của Công an.

[9.29] 01 (một) máy in hiệu CANON.

[9.30] 01 (một) túi giấy đựng ảnh bên ngoài ghi chữ “Đức Bình”, bên trong có 11 tấm ảnh Lê Văn Đ mặc trang phục Công an nhân dân (cỡ ảnh 2x3cm và 4x6cm).

[9.31] 01 (một) khung ảnh Lê Văn Đ mặc trang phục xuân hè cảnh sát, đội mũ kê pi Cảnh sát, dưới góc trái ảnh có ghi chữ “Bộ tư lệnh CSCĐ E22 K20”. [9.32]01 (một) đôi giày da ngắn cổ màu đen, bên trong phía dưới lót giầy ghi chữ “CỤC QUÂN NHU – TCHC năm 2018”.

[9.33] 01 (một) túi nilon màu xanh bên trong có một thẻ kỹ thuật viên của Tổng đại lý Tuyên Quang mang tên Lê Văn Đ.

[9.34]01 (một) quyển sổ màu tím, mặt ngoài dán dòng chữ "BỘ TƯ LỆNH CSCĐ" (E22) K20.

[9.35] 01 (một) sổ màu vàng mặt ngoài ghi dòng chữ “C 1/10/17, Sổ theo dõi Trực chiến”.

[9.36] 01 (một) sổ màu trắng, mặt ngoài ghi dòng chữ “MÃ NGÀNH CÔNG AN NHÂN DÂN”.

[9.37] 01 (một) túi nilon Clear bên trong có 08 tờ giấy A4: tờ số 1 có in dòng chữ “Sổ trinh sát”; tờ số 2 có in dòng chữ “MÃ NGÀNH CÔNG AN NHÂN DÂN”; tờ số 3 có in 06 dòng chữ ghi “BỘ TƯ LỆNH CSCĐ" (E22) K20; tờ số 4 có in ba dòng chữ “SỔ TRINH SÁT”; tờ số 5 có in ba dòng chữ “MÃ NGÀNH CÔNG AN NHÂN DÂN”; tờ số 6 có in hai dòng chữ “SỔ TRINH SÁT”; tờ số 7 có in hai dòng chữ “TIỂU ĐOÀN CSCĐ ĐÔNG BẮC(2)”; tờ số 8 có in bốn dòng chữ ghi “TIỂU ĐOÀN CSCĐ ĐÔNG BẮC(2)”;

[9.38] Bộ phù hiệu kết hợp cấp hiệu trung úy Công an nhân dân;

[9.39] 01 (một) kẹp cà vạt Cảnh sát.

[9.40]10 (mười) quyển sách giáo trình các loại, mặt ngoài ghi dòng chữ “Trung úy Đỉnh”.

[9.41] 01 (một) mũ bảo hiểm màu xanh có kính che, phía trước mũ có ghi dòng chữ "VICTORY" màu trắng, mặt sau in dòng chữ “HCKT”.

[9.42] 01 (một) đôi giầy da ngắn cổ đen, phía dưới lót giấy ghi chữ “CÔNG TY 19-5 SX NĂM 2018”.

[9.43] 01 (một) đôi giày da cao cổ, màu đen, phía dưới lót giầy ghi chữ “BỘ CÔNG AN, CÔNG TY 19-5, NĂM SX 2015” [9.44] Toàn bộ vật chứng nêu trên gồm toàn bộ quần, áo lực lượng Công an nhân dân, ve, hàm, mũ, giầy, tất, bộ đàm, còng số 8, mũ lưỡi trai, mũ kê pi, thắt lưng, mũ bảo hiểm thu giữ của bị cáo, bị cáo đã đặt mua trên mạng xã hội, liên quan đến việc phạm tội; túi đựng giấy ảnh, khung ảnh, sách giáo trình, sổ sách ghi chép đã thu giữ của bị cáo không có giá trị sử dụng, cần tịch thu toàn bộ để tiêu hủy. Đối với Giấy chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe, thẻ ngân hàng BIDV, thẻ ngân hàng Vietinbank đều mang tên Lê Văn Đ, trả lại cho bị cáo. Đối với 01 (một) máy in hiệu CANON, xác định không liên quan đến việc phạm tội trả lại cho bị cáo. Đối với 01 chiếc điện thoại Iphone 7 Plus màu đen, xác định liên quan đến việc phạm tội, cần tịch thu để hóa giá sung Ngân sách nhà nước.

[10] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Về chứng cứ tài liệu trong vụ án được thu thập, bảo quản đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[11] Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch để sung Ngân sách Nhà nước theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 3 Điều 174; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; Căn cứ các Điều 584, 585, 586, 589, 357 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự;

Căn cứ vào Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a, c khoản 1 Điều 23; Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Văn Đ phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lê Văn Đ 09 (chín) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 04/8/2019.

3. Trách nhiệm dân sự: Bị cáo Lê Văn Đ phải có trách bồi thường cho bà Vi Thị V số tiền là 450.000.000đ (bốn trăm năm mươi triệu đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án chậm trả thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả được thực hiện theo quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự.

4. Về xử lý vật chứng:

4.1 Tịch thu để tiêu hủy gồm:

- 01 (một) bộ cấp hàm trung úy và bộ phù hiệu kết hợp cấp hiệu thượng úy và bộ phù hiệu của lực lượng Công an nhân dân.

- 01 (một) khóa số 8, trên mặt khóa có dòng chữ “BỘ CÔNG AN KC”.

- 01 (một) bộ đàm có kích thước 22,5 x 4,5 x 6cm, trên có dòng chữ “MOTOROLA”. - 01 (một) dùi cui điện, trên có dòng chữ “Shen Sou Fang Wei Qi TW-09 MADE IN CHINA”, phía ngoài có vỏ giả màu đen.

- 01 (một) bật lửa ga hình khẩu súng màu đen, trên có dòng chữ “DESERT EAGLE PISTOL”.

- 01 (một) quyển sổ có kích thước 21,3 x 15,5 x 1,7cm, phía ngoài có dán dòng chữ “SỔ CÔNG TÁC”, trang thông tin có viết dòng chữ “BỘ TƯ LỆNH, CSCĐ, TIỂU ĐOÀN, CSCĐ.(E22)K20”, trong đó có 20 trang ghi nội dung thông tin”.

- 01 (một) quyển sổ có kích thước 21,3 x 15,5 x 1,7cm, phía ngoài có dán dòng chữ “SỔ TRINH SÁT”, trong đó có 06 trang có ghi nội dung thông tin”.

- 01 (một) 01 (một) quyển sổ có kích thước 21,3 x 15,5 x 1,7cm, phía ngoài có dán dòng chữ “SỔ TRINH SÁ AN”, trang thông tin có viết dòng chữ “BT LỆNH, CSCĐ(K20), đơn vị VI, TRINH SÁT”, trong đó có 04 trang có ghi nội dung thông tin”.

- 01 (một) quyển vở học sinh có kích thước 17 x 24 x 0,5cm, phía ngoài có dán dòng chữ “TIÊU ĐOÀN CSCĐ ĐÔNG BẮC (2), Chính trị AN NINH ND HT, Tập huấn nghiệp vụ, trong có 05 trang có ghi nội dung thông tin”.

- 03 (ba) quần dài Cảnh sát’

- 02 (hai) áo vest thu đông Cảnh sát;

- 01 (một) thắt lưng, mặt thắt lưng in nổi chữ CA.

- 01 (một) bộ quần áo dài tay xuân hè của lực lượng Cảnh sát Cơ động.

- 01 (một) áo dài tay xuân hè Cảnh sát.

- 01 (một) mũ lưỡi trai màu đen Cảnh sát cơ động.

- 01 (một) mũ kê pi cảnh sát, mũ có gắn Công an hiệu.

- 01 (một) mũ bảo hiểm màu xanh đậm có kính che, hai bên có in chữ “CSCĐ”, phía trước mũ có gắn Công an hiệu.

- 01 (một) túi nilon màu xanh bên trong có: một dây lưng quai chéo của lực lượng Công an nhân dân, một áo phông cộc tay có cổ màu trắng, phía trước bên trái ngực và phía sau áo có in dòng chữ”BTL.CSCĐ.Đông Bắc II CA NHÂN DAN” màu đỏ.

- 01 (một) áo xuân hè cộc tay cảnh sát.

- 01 (một) áo phông cộc tay màu đen có cổ, phía bên trái mặt trước ngực áo có in logo Công an hiệu ghi chữ “Bộ công an, Công an nhân dân”; mặt sau lưng có có in dòng chữ “POLICE”.

- 22 (hai mươi hai) chiếc tất màu xanh của Công an.

- 01 (một) túi giấy đựng ảnh bên ngoài ghi chữ “Đức Bình”, bên trong có 11 tấm ảnh Lê Văn Đ mặc trang phục Công an nhân dân (cỡ ảnh 2x3cm và 4x6cm).

- 01 (một) khung ảnh Lê Văn Đ mặc trang phục xuân hè cảnh sát, đội mũ kê pi Cảnh sát, dưới góc trái ảnh có ghi chữ “Bộ tư lệnh CSCĐ E22 K20”.

- 01 (một) đôi giày da ngắn cổ màu đen, ben trong phía dưới lót giầy ghi chữ “CỤC QUÂN NHU – TCHC năm 2018”.

- 01 (một) túi nilon màu xanh bên trong có một thẻ kỹ thuật viên của Tổng đại lý Tuyên Quang mang tên Lê Văn Đ.

- 01 (một) quyển sổ màu tím, mặt ngoài dán dòng chữ “BỘ TƯ LỆNH CSCĐ (E22) K20.

- 01 (một) sổ màu vàng mặt ngoài ghi dòng chữ “C 1/10/17, Sổ theo dõi Trực chiến”.

- 01 (một) sổ màu trắng, mặt ngoài ghi dòng chữ “MÃ NGÀNH CÔNG AN NHÂN DÂN”.

- 01 (một) túi nilon Clear bên trong có 08 tờ giáy A4:

+ tờ số 1 có in dòng chữ “Sổ trinh sát”

+ tờ số 2 có in dòng chữ “MÃ NGÀNH CÔNG AN NHÂN DÂN”

+ tờ số 3 có in 06 dòng chữ ghi “BỘ TƯ LỆNH CSCĐ (E22) K20.

+ tờ số 4 có in ba dòng chữ “SỔ TRINH SÁT”

+ tờ số 5 có in ba dòng chữ “MÃ NGÀNH CÔNG AN NHÂN DÂN”

+ tờ số 6 có in hai dòng chữ “SỔ TRINH SÁT”

+ tờ số 7 có in hai dòng chữ “TIỂU ĐOÀN CSCĐ ĐÔNG BẮC(2)”

+ tờ số 8 có in bốn dòng chữ ghi “TIỂU ĐOÀN CSCĐ ĐÔNG BẮC(2)” - Bộ phù hiệu kết hợp cấp hiệu trung úy Công an nhân dân.

- 01 (một) kẹp cà vạt Cảnh sát.

- 10 (mười) quyển sách giáo trình các loại, mặt ngoài ghi dòng chữ “Trung úy Đỉnh”.

- 01 (một) mũ bảo hiểm màu xanh có kính che, phía trước mũ có ghi dòng chữ ‘VICTORY” màu trắng, mặt sau in dòng chữ “HCKT”.

- 01 (một) đôi giầy da ngắn cổ đen, phía dưới lót giấy ghi chữ “CÔNG TY 19- 5 SX NĂM 2018”.

- 01 (một) đôi giày da cao cổ, màu đen, phía dưới lót giầy ghi chữ “BỘ CÔNG AN, CÔNG TY 19-5, NĂM SX 2015”.

4.2 Trả lại cho bị cáo Lê Văn Đ gồm:

- 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 184111051 mang tên Lê Văn Đ;

- 02 (hai) giấy phép lái xe hạng A1, B2 đều mang tên Lê Văn Đ;

- 01 (một) thẻ ngân hàng BIDV số 9704180058677204 mang tên Lê Văn Đ;

- 01 (một) thẻ ngân hàng Vietinbank số 9704155233361817 mang tên Lê Văn Đ.

- 01 (một) máy in hiệu CANON.

4.3 Tịch thu để hóa giá sung Ngân sách Nhà nước:

- 01 (một) điện thoại Iphone 7 Plus màu đen, IMEI 359172077223810, máy đã qua sử dụng, màn hình bị nứt rạn, ốp ngoài màu đen có dòng chữ “SHENGO”.

(Vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh Lạng Sơn theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 22/10/2019).

5. Về án phí: Buộc bị cáo Lê Văn Đ phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 22.000.000đ (hai mươi hai triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch; tổng cộng 22.200.000đ (hai mươi hai triệu hai trăm nghìn đồng) để nộp ngân sách Nhà Nước.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Nông Hồng C vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 193/2019/HS-ST ngày 19/11/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:193/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về