Bản án 193/2018/HNGĐ-ST ngày 08/02/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 193/2018/HNGĐ-ST NGÀY 08/02/2018 VỀ LY HÔN

Trong ngày 15/01/2018 và ngày 08/02/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành  phố  Hồ  Chí  Minh  xét  xử  sơ  thẩm  công  khai  vụ  án  thụ  lý  số 402/2015/HNST ngày 06 tháng 10 năm 2015 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 3147/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 12 năm 2017 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Mỹ N, sinh năm 1989

Địa chỉ: 200/7E ấp A, xã B, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh. Bị đơn: Ông T Michael Gerald,  sinh năm 1977

Địa chỉ: Leeburg, Florida 34788, USA.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong  đơn  khởi  kiện  ngày  07/9/2015  và  bản  tự  khai,  nguyên  đơn  bà Nguyễn Thị Mỹ N trình bày:

Bà và ông T Michael Gerald quen biết với nhau vào năm 2006. Ngày 05/3/2009, đôi bên tổ chức lễ cưới và bắt đầu sống chung, sau đó tiến hành làm thủ tục đăng ký kết hôn được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 2768 quyển số 14 ngày 28/10/2013 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Sau đó ông T Michael Gerald quay về Hoa Kỳ để làm hồ sơ bảo lãnh cho bà. Vợ chồng thường xuyên liên lạc với nhau và cũng từ đó giữa đôi bên phát sinh nhiều điểm không hợp nhau, thường xảy ra mâu thuẫn nhưng vì con bà cố gắng bình tĩnh hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Sau đó, bà biết được ông T Michael Gerald có chung sống với một người phụ nữ khác ở Hoa Kỳ, bà khuyên can nhưng ông T Michael Gerald không nghe. Từ đó tình cảm của bà đối với chồng không còn nữa. Bà không muốn duy trì cuộc hôn nhân này nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn để ổn định cuộc sống.

Về  con  chung:  có  01  người  con  tên  Torres  Hoàng  Anh,  sinh  ngày 23/11/2009 hiện đang ở với bà. Bà có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, yêu cầu ông T Michael Gerald cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 16.000.000đồng. Ngày 07/02/2018, bà Nguyễn Thị Mỹ N có Đơn thay đổi nội dung khởi kiện không yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông T Michael Gerald phải cấp dưỡng nuôi con hằng tháng, việc cấp dưỡng nuôi con sẽ do hai bên tự thỏa thuận.

Về tài sản chung, nợ chung: không có.

Bị đơn ông T Michael Gerald cư trú ở Hoa Kỳ, Tòa án thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp, đã gửi Văn bản thông báo về việc thụ lý và xét xử vụ án dân sự sơ thẩm (lần 1) số 496/UTTPDS-VP ngày 17/5/2016 và Thông báo về việc thụ lý và xét xử vụ án dân sự sơ thẩm (lần 2) số 211/TTTPDS-TA30 ngày 14/7/2017. Theo nôi dung tại các Thông báo nêu trên thì thời gian mở phiên tòa lần 1 vào lúc 7g30 ngày 25/01/2017, thời gian mở phiên tòa lần 2 vào lúc 8g00 ngày 15/01/2018. Văn bản đã được Bộ Tư pháp gửi đến Bộ Ngoại giao (Cục Lãnh sự) ngày 27/6/2016 và gửi đến Công ty ABC Legal, Hoa Kỳ. Theo đó, cơ quan có thẩm quyền của Hoa Kỳ đã thực hiện ủy thác tư pháp bằng phương thức chuyển cho người sống chung với ông T Michael Gerald vào ngày 29/12/2017. Đến nay, Tòa án không nhận được lời khai, tài liệu, chứng cứ của ông T Michael Gerald; đến ngày mở phiên tòa ông T Michael Gerald không có mặt.

Tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mỹ N, bị đơn ông T Michael Gerald đều vắng mặt.

Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh:

- Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của tố tụng dân sự về thụ lý vụ án, thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn chuyển hồ sơ cho Viện Kiểm sát nghiên cứu và thủ tục tại phiên tòa .

- Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Bà Nguyễn Thị Mỹ N được ly hôn ông T Michael Gerald. Con chung: giao bà Nguyễn Thị Mỹ N được trực tiếp nuôi dưỡng người con chung T Hoàng Anh, sinh ngày 23/11/2009. Ghi nhận việc cấp dưỡng nuôi con chung do hai bên tự thỏa thuận với nhau. Tài sản chung không có gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mỹ N đang cư trú tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam; bị đơn ông T Michael Gerald cư trú tại Hoa Kỳ; giữa đôi bên có tranh chấp về hôn nhân và gia đình nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam theo quy định tại Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 37; điểm a khoản 2 Điều 38; Điều 464; Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và  Điều 122, Điều 123, Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Tại phiên tòa sơ thẩm: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mỹ N có Đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, bị đơn ông T Michael Gerald vắng mặt đến lần thứ 2. Căn cứ quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

 [2] Về áp dụng pháp luật nội dung:

Xét yêu cầu của nguyên đơn nhận thấy:

Bà Nguyễn Thị Mỹ N và ông T Michael Gerald tự nguyện kết hôn với nhau vào năm 2013, có làm thủ tục đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn vào Sổ đăng ký số 2768 quyển số 14 ngày 01/11/2013 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy, hôn nhân giữa đôi bên là hợp pháp kể từ thời điểm đăng ký kết hôn.

Theo lời khai của bà N thì sau khi đăng ký kết hôn ông T Michael Gerald quay trở về Hoa Kỳ để làm thủ tục bảo lãnh cho bà và con sang đoàn tụ. Vợ chồng vẫn thường xuyên giữ liên lạc với nhau, tuy nhiên qua sự liên lạc này thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do ông T Michael Gerald không chung thủy, tính tình đôi bên không phù hợp, khác biệt về văn hóa và cách sống dẫn đến tình cảm vợ chồng lạnh nhạt. Dù đã cố gắng hàn gắn tình cảm để cùng chăm sóc, nuôi dạy con nhưng ông T Michael Gerald không có thiện chí . Vì vậy, bà xác định tình cảm vợ chồng không còn có thể tiếp tục sống chung và quyết định ly hôn.

Xét, tại khoản 1 Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”. Như vậy, tình nghĩa vợ chồng phải xuất phát từ cả hai phía cùng có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng và cùng có trách nhiệm quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Thực tế vợ chồng đã không còn sống cùng nhau và kể từ khi bà N nộp đơn ly hôn ông T Michael Gerald cũng không tạo điều kiện hàn gắn tình cảm vợ chồng mà vẫn mạnh ai nấy sống trong thời gian dài nên hôn nhân giữa đôi bên lâm vào tình trạng trầm trọng. Do đó, nếu tiếp tục kéo dài quan hệ hôn nhân nói trên thì mục đích của hôn nhân cũng không thể đạt được. Xét, đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh là có căn cứ nên Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận yêu cầu của bà N.

Về con chung: Bà N khai quá trình sống chung giữa đôi bên có 01 người con chung là Torres Hoàng Anh, sinh ngày 23/11/2009 hiện đang ở với mẹ. Khi ly hôn bà có nguyện vọng được  tiếp tục nuôi dưỡng con chung, về cấp dưỡng nuôi con bà và ông T Michael Gerald tự thỏa thuận với nhau không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại Bản tự khai ngày 27/02/2017, trẻ T Hoàng Anh có nguyện vọng chọn sống với mẹ khi cha mẹ không còn sống chung với nhau nữa.

Xét, người con chung chưa thành niên hiện đang sống cùng với bà N, do bà N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Để đảm bảo quyền lợi mọi mặt cho người con được phát triển toàn diện và được sống ổn định, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà N, giao người con chung cho bà N trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với nguyện vọng của con, phù hợp với qui định pháp luật.

Về cấp dưỡng nuôi con ý kiến bà N để đôi bên tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Xét ý kiến bà N là tự nguyện, không trái quy định pháp luật, Hội đồng xét xử ghi nhận.

Về tài sản chung và nợ chung: bà N khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu có tranh chấp các đương sự được quyền khởi kiện bằng vụ án khác theo quy định pháp luật.

Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 200.000 đồng nguyên đơn chịu.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 37; khoản 2 Điều 38; Điều 464; Điều 469; Điều 474; Điều 477; Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 19, Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 122, Điều 123, Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Pháp lệnh về lệ phí và án phí Tòa án; Căn cứ Luật Thi hành án dân sự 2008;

Căn  cứ  Thông  tư  liên  tịch  số 12/2016/BTP-BNG-TANDTC ngày19/10/2016 về quy định trình tự, thủ tục tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự ; Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn;

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Mỹ N được ly hôn ông T MichaelGerald.

Giấy chứng nhận kết hôn vào Sổ đăng ký kết hôn số 2768, Quyển số 14 ngày 01/11/2013 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung: Giao bà Nguyễn Thị Mỹ N được quyền trực tiếp nuôi dưỡng người con chung Torres Hoàng Anh, sinh ngày 23/11/2009. Ghi nhận việc cấp dưỡng nuôi con chung do đôi bên tự thỏa thuận.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nomđể cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Bà Nguyễn Thị Mỹ N khai không có. Nếu có tranh chấp các đương sự được quyền khởi kiện bằng vụ án khác theo quy định pháp luật.

4. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng bà Nguyễn Thị Mỹ N nộp tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, cấn trừ tiền tạm ứng án phí 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng bà N đã nộp tại Biên lai thu số AG/2010/09315 ngày 05/10/2015 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, bà N đã nộp đủ án phí.

Trả lại cho bà Nguyễn Thị Mỹ N 3.000.000 (Ba triệu) đồng tiền tạm ứng chi phí ủy thác tư pháp đã nộp tại Biên lai thu số AA/2016/0033563 ngày24/02/2017 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.

Án xử công khai vắng mặt nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mỹ N và bị đơn ôngT Michael Gerald; bà Nguyễn Thị Mỹ N được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ, ông T Michael Gerald được quyền kháng cáo trong thời hạn 01 (một) tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 193/2018/HNGĐ-ST ngày 08/02/2018 về ly hôn

Số hiệu:193/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về