Bản án 192/2019/HSST ngày 15/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TN – TỈNH TN

BẢN ÁN 192/2019/HSST NGÀY 15/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 15 tháng 5 năm 2019, tại Tòa án nhân dân thành phố TN xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 182/2018/HSST ngày 29/03/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 205/2019/QĐXXST-HS ngày 26/04/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Ngọc L; Sinh ngày: 01/01/1960;Tên gọi khác: Không;

Giơi tính: Nam; Nơi cư trú: Xóm Huống Trung, xã HT, thành phố TN, tỉnh TN; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giao : Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 3/10; Con ông: Nguyễn Văn L (đã chết); Con bà: Nguyễn Thị S (đã chết); Gia đình có 8 anh em, bị cáo là con thứ hai; Vợ: Nguyễn Thị Bích, sinh năm 1963; Có hai con: lớn sinh năm 1985, con nhỏ sinh năm 1988; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

Tại bản án số 35/2006/HSST ngày 27/03/2006 Tòa án nhân dân thành phố TN xử phạt 24 tháng tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Năm 1998 bị áp dụng biện pháp đưa vào cai nghiện bắt buộc tại trung tâm giáo dục xã hội 05-06 Thái Nuyên, thời hạn 06 tháng.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam Công an tỉnh TN (bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/12/2018 đến nay).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Anh Nguyễn Trung H4,sinh 1988 (Có mặt)

Địa chỉ: Xóm Huống Trung, xã HT, thành phố TN .

Người m chứng: Anh Đặng Văn C, sinh năm 1978 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Xóm Gió, xã Ký Phú, huyện Đại Từ, TN

Người chứng kiến: Ông Nguyễn Văn Th,sinh năm 1969 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Tổ 5, phường TV, thành phố TN .

NỘI DUNG VỤ ÁN

Khong 16 giờ 50 phút ngày 19/12/2018, tổ công tác phường Hoàng Văn Thụ, thành phố TN làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 23, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố TN phát hiện 01 người đàn ông điều khiển xe mô tô BKS 20L2-0638 có biểu hiện nghi vấn về ma túy. Tổ công tác theo dõi đối tượng đến khu vực tổ 16, phường Hoàng Văn Thụ,thành phố TN thì yêu cầu người đàn ông dừng xe để tiến hành kiểm tra hành chính. Người đàn ông khai tên Nguyễn Ngọc L, Lai tự giác lấy từ trong túi áo ngực bên trái đang mặc ra 01 gói giấy bạc màu vàng, bên trong chứa chất bột màu trắng, Lai khai đó là Heroine và giao nộp cho tổ công tác. Tổ công tác phường Hoàng Văn Thụ đã tiến hành thu giữ và niêm phong vật chứng, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lai. Ngoài ra còn thu giữ 01 xe mô tô BKS 20L2-0638, số khung VTTWCHOG4UM000803, số máy VTTJL1P52FMHP000803.

Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra tiến hành cân xác định khối lượng chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Ngọc L có khối lượng là 0,375 gam và lấy mẫu vật gửi giám định ký hiệu L1.

Tại bản kết luận giám định số 7173 ngày 28/12/2018 của Viện khoa học kỹ thuật hình sự kết luận: Chất bột màu trắng trong mẫu L1 thu giữ của Nguyễn Ngọc L là chất ma túy, loại Heroine

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Ngọc L khai: Bản thân nghiện ma túy từ năm 1994 nên khoảng 16 giờ 30 phút ngày 19/12/2018 Lai điều khiển xe mô tô BKS 20L2-0638 đi từ nhà của mình đến khu vực đầu cầu Gia Bẩy để tìm mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Tại đây, Lai gặp và mua được 01 gói ma túy được bọc trong giấy bạc màu vàng với giá 150.000 đồng từ một người đàn ông không biết lai lịch, địa chỉ. Lai cất gói ma túy vừa mua được vào túi áo ngực bên trái, trên đường đi về nhà để sử dụng thì bị phát hiện và thu giữ như trên.

Lời khai nhận của Nguyễn Ngọc L phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến, và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng của vụ án bao gồm:

+ 01 bì niêm phong ký hiệu 7173/C09 (TT2) bên trong có chứa chất ma túy, hiện đang được bảo quản tại khi vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN chờ xử lý.

+ 01chiếc xe mô tô BKS 20L2- 0638, số khung VTTWCHOG4UM000803, số máy VTTJL1P52FMHP000803 quá trình điều tra xác định là của anh Nguyễn Trung H4, con trai của bị cáo Lai, anh H4 không biết việc Lai sử dụng chiếc xe để đi mua ma túy. Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố TN đã trả chiếc xe trên cho anh H4 quản lý và sử dụng.

Kết thúc phần thẩm vấn, tại phần tranh luận, vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố TN giữ quyền công tố đã công bố bản luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố. Sau khi phân tích, đánh giá các chứng cứ, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bị cáo Nguyễn Ngọc L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù giam. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Vt chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS 2015, Điều 106 BLTTHS

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bì niêm phong ký hiệu 7173/C09 (TT2).

- Bị cáo phải chịu án phí và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Trong phần tranh luận, bị cáo thừa nhận việc truy tố, xét xử đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, không bị oan, bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào những chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét, đánh giá đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo. Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN , của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Ngọc L tại phiên toà hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp vật chứng đã thu giữ và các chứng cứ, tài liệu khác thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Hôi 16 giờ 50 phút ngày 18/12/2018, tại khu vực tổ 16, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố TN , Nguyễn Ngọc L có hành vi tàng trữ 0,375 gam Heroine để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an phường Hoàng Văn Thụ, thành phố TN phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

[3]. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật viện dẫn là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Ti phạm và hình phạt của Nguyễn Ngọc L được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Ni dung điều luật quy định như sau:

“ 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy ......................................thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm c, Heroine.... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[4]. Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TN HS bị cáo được hưởng:

- Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi tàng trữ ma túy của bị cáo gây lên mối nguy hại cho xã hội, xâm phạm đến các quy định độc quyền quản lý và sử dụng của Nhà nước về các chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an ở địa phương, gây nên tác hại rất xấu cho xã hội, hủy hoại về kinh tế, sức khỏe con người và cũng là nguyên nhân phát sinh ra các tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Do đó, cần có một mức án nghiêm khắc và buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội giúp bị cáo cai nghiện và răn đe phòng ngừa tội phạm.

- Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TN HS đối với bị cáo Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo không có tiền án tiền sự, nhưng có nhân thân xấu, Tại bản án số 35/2006/HSST bị cáo đã bị Tòa án nhân dân thành phố TN xử 24 tháng tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà tiếp tục phạm tội. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải vì vậy được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

[5]. Về hình phạt: Hội đồng xét xử xét thấy, để đảm bảo tính nghiêm minh của luật pháp cần áp dụng mức hình phạt tù tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Xét quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, bị cáo tuổi cao, hiện đang có bệnh xã hội (HIV) nên xem xét giảm một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo yên tâm cải tạo tốt sớm trở về với gia đình và xã hội, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị mức án đối với bị cáo, xét thấy là phù hợp được chấp nhận.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội lẽ ra cần phạt bổ sung bị cáo một khoản tiền để sung quỹ Nhà nước, nhưng qua xác minh bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản gì riêng, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[7]. Về vật chứng vụ án: áp dụng điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu 7173/C09 (TT2) bên trong có chứa ma túy.

[8]. Các vấn đề khác: Trong vụ án này Nguyễn Ngọc L khai về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, Nguyễn Ngọc L đã mua của một người đàn ông không rõ lai lịch. Quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch của người này nên Cơ quan điều tra không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý

[9]. Bị cáo phải nộp án phí HSST và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên: Bị cáo Nguyễn Ngọc L phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Ngọc L: 30 (Ba mươi) tháng tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 19/12/2018; Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự.: Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án;

2. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS năm 2015:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu 7173/C09 (TT2) bên trong có chứa ma túy.

(Vật chứng hiện đang lưu giữ, bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự thành phố TN theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 214 ngày 20/3/2019).

3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, của UBTV Quốc hội quy định về án phí, lệ phí toà án: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng), án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 192/2019/HSST ngày 15/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:192/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tây Ninh - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về