Bản án 19/2021/HS-ST ngày 05/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ YÊN, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 19/2021/HS-ST NGÀY 05/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 01 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số: 14/2020/TLST-HS ngày 26/11/2020, Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2020/QĐXXST-HS ngày 21/12/2020 đối với các bị cáo:

1. Lò Văn T, sinh ngày 11/01/1981 tại xã A – Phù Yên – Sơn La; Nơi cư trú: bản K, xã A, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: trồng trọt; trình độ văn hóa: 0/12; dân tộc :Thái; Giới tính: Nam; Đảng phái, đoàn thể, tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn L (đã chết) và bà Lò Thị U; có vợ là Lò Thị N và 02 con; Tiền án: Ngày 07/7/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La xử phạt 02 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy; tiền sự: Ngày 17/6/2019 bị Chủ tịch UBND xã A, huyện Phù Yên áp dụng biện pháp giáo dục tại xã thời gian là 3 tháng; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 20/8/2020 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

2. Đinh Văn V, sinh ngày 26/9/1991 tại xã A – Phù Yên – Sơn La; Nơi cư trú: bản K, xã A, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; Đảng phái, đoàn thể, tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Văn M (đã chết) và bà Đinh Thị D, sinh năm 1963; có vợ là Đinh Thị G (đã ly hôn), có 01 con sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự: Không có; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 20/8/2020 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Bạc Văn C, sinh ngày 18/10/1987; Nơi cư trú: bản K, xã A, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 22 giờ ngày 19/8/2020 Đinh Văn V một mình từ nhà đi đến khu vực trạm điện thuộc bản B, xã P, huyện Phù Yên để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đi đến Đinh Văn V nhìn thấy một người thanh niên (V không biết tên, địa chỉ) đang ngồi trên xe cạnh đường quốc lộ 37 nói chuyện điện thoại, V nghe thấy người thanh niên đó nói “mày lấy bao nhiêu, mày lấy bao nhiêu” Sau khi người thanh niên đó nói chuyện xong V hỏi người thanh niên đó “mày có hàng không, cho taomột ít để tao dùng”. Người thanh niên đó trả lời “không có mai mày ra khu vực bản P, xã T tao bán cho, hẹn đến khoảng 09 giờ đến 10 giờ nhé”. Đinh Văn V nhất trí rồi đi về nhà ngủ, đến khoảng 08 giờ ngày 20/8/2020 V từ nhà cầm theo số tiền 600.000 đồng đi đến chỗ hẹn. Khi đến V ngồi chờ một lúc thì thấy người thanh niên đó đi từ hướng Vạn Yên đến hỏi V “mày lấy bao nhiêu” V trả lời “cho tao 400.000đồng”. Người thanh niên đó vừa đưa cho V một gói bên ngoài được gói bằng nilon màu trắng vừa nói “ma túy đây, gói này tao làm thành quả giá 500.000đồng nhưng mày đưa đây tao lấy 400.000đồng”. V cầm lấy rồi đưa tiền cho người thanh niên đó. Người thanh niên đó nói “tao còn 09 viên hồng phiến bị ẩm, mày có lấy không tao bán rẻ cho”. V nói “ tao chỉ còn 200.000đồng thôi” Người thanh niên đó đồng ý rồi đưa 09 viên hồng phiến cho V rồi cầm 200.000đồng rồi V đi về nhà.

Khi về nhà V lấy gói Heroine ra lấy một ít để sử dụng rồi chia gói Heroine ra thành 05 gói nhỏ. Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày V cho số ma túy và viên hồng phiến vào một chiếc hộp mỹ phẩm đậy nắp lại cho vào túi quần đi vào nhà anh rể để sửa ti vi.

Khi đi đến đầu ngõ V gặp Lò Văn T, T hỏi V “còn ma túy không? Cho anh 2 gói”, T trả lời “ không phải lo đâu, cho anh 02 gói 200.000đồng, tý anh về anh trả tiền cho”. V đồng ý rồi quay lưng ra phía T lấy chiếc hộp đựng ma túy trong túi quần mở lấy 02 gói Heroine rồi quay lại đưa cho T. Lò Văn T cầm lấy gói ma túy rồi đi ra khu cánh đồng giáp ranh giữa hai xã A và P thì gặp một người tên K (T không biết họ, tên, địa chỉ). T và K hẹn nhau từ trước, khi đến nơi T hỏi “ mua được không” T trả lời “mua được rồi “K đưa số tiền 400.000đồng cho T và bảo “thế mày vào nhà tao sử dụng đi, nhanh nhanh lên tao còn đi vào huyện”. K bảo đi trước để mua bật lửa, giấy bạc sẽ vào sau. T quay ra đến bản C, xã P thì bị phát hiện và bắt giữ.

Do có hành vi trên, tại bản cáo trạng số: 77/CT- VKS - PY ngày 25/11/2020 của VKS nhân dân huyện Phù Yên đã truy tố bị cáo Lò Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự và truy tố bị cáo Đinh Văn V về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà vị đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Lò Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và Đinh Văn V về tội Mua bán trái phép chất ma túy và đề nghị:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s, t khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lò Văn T từ 20 tháng đến 24 tháng tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Đinh Văn V từ 03 năm đến 04 năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của các bị cáo tính từ ngày 20/8/2020.

nh phạt bổ sung: Không áp dụng đối với các bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1, 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong khi bắt quả tang, 01 phong bì niêm phong khi bắt quả tang đã bóc mở, 01 phong bì của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Sơn La đã niêm phong.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen thu giữ của Đinh Văn V và số tiền 400.000đ (bốn trăm nghìn đồng).

Trả lại 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, màu đen và số tiền 270.000đ (hai trăm bảy mươi nghìn đồng) do không liên quan đến vụ án cho bị cáo Lò Văn T.

Chấp nhận cơ quan CSĐT công an huyện Phù Yên đã trả lại cho anh Bạc Văn C 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave BKs 26D1- 04849.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với các bị cáo. Đề nghị miễn án phí cho các bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Phù Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt, xét thấy việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, căn cứ vào điều 292 Bộ luật tố tụng Hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử.

[2] Ngày 20/8/2020 Lò Văn T có hành vi cất giấu 0,21 gam Heroine và Đinh Văn V có hành vi bán trái phép 1,80 gam Heroine và Methamphetmine. Hành vi phạm tội của các bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau:

[3] Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 20 giờ 40 phút ngày 20/8/2020 tại bản C 1, xã P, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La.

Biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Đinh Văn V thu giữ 03 gói chất bột màu trắng và 09 viên hồng nghi là ma túy.

Biên bản mở niêm phong, cân tịnh xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng lập hồi 09 giờ 40 phút, ngày 21/8/2020 tại Công an huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La.

Kết luận giám định số 1372 ngày 25/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Sơn La kết luận: chất bột thu giữ của Đinh Văn V, khối lượng 0,55 gam là ma túy, loại heroine; 09 viên hồng khối lượng 1,04 gam là ma túy, loại Methamphetamine.

Kết luận giám định số 1427 ngày 07/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Sơn La kết luận: số tiền 670.000 đồng gửi giám định là tiền thật.

Biên bản làm việc về mở niêm phong, kiểm tra và niêm phong lại vật chứng là chiếc điện thoại di động trong vụ án Lò Văn T và đồng phạm.

[4] Lời khai nhận tội của các bị cáo.

[5] Với các căn cứ chứng minh trên có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lò Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự và bị cáo Đinh Văn V đã phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 251 Bộ luật hình sự.

[6] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo Lò Văn T có hành vi cất giấu 0,21gam Heroine, hành vi của bị cáo đã vi phạm vào điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng quy định mức hình phạt từ một năm đến năm năm tù.

Bị cáo Đinh Văn V có hành vi mua bán trái phép 1,80 gam Heroine và Methamphetmine, hành vi của bị cáo đã vi phạm vào khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự, phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng quy định mức hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù.

Hành vi phạm tội của các bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, là nguyên nhân gây ra các loại tội phạm khác. Do đó cần xử phạt các bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội bị cáo gây ra để đảm bảo giáo dục riêng, phòng ngừa chung.

[7] Tuy nhiên khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét: Sau khi phạm tội các bị cáo đã thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo Lò Văn T có 01 tiền án ngày 07/7/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La xử phạt 02 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, chưa được xóa án tích thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, có 01 tiền sự ngày 17/6/2019 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã A, huyện Phù Yên áp dụng biện pháp giáo dục tại xã thời gian là 3 tháng.

Bị cáo Đinh Văn V không có tình tiết tăng nặng. Do đó cần xem xét cân nhắc khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[8] Về hình phạt bổ sung - Phạt tiền: Xét điều kiện hoàn cảnh các bị cáo khó khăn, không có công ăn việc làm, không tài sản có giá trị nên không áp dụng đối với các bị cáo.

[9] Về nguồn gốc ma túy, Đinh Văn V khai mua với một người đàn ông (V không biết tên, địa chỉ) 01 gói ma túy và 09 viên hồng phiến với giá 600.000đồng. Ngoài lời khai của bị cáo, không có căn cứ để điều tra làm rõ, cần chấp nhận.

Đối với Hà Văn K (sinh năm 1982, Nơi cư trú: bản Nà Lè, xã P, huyện Phù Yên), T khai việc đi mua ma túy là do K bảo đi mua, sau khi mua được K đưa tiền để T đi trả tiền đã mua ma túy. Quá trình điều tra thử test với Hà Văn K cho kết quả âm tính, tiến hành đối chất giữa Lò Văn T và Hà Văn K kết quả K khẳng định không được bảo T đi mua ma túy, ngoài lời khai của T không có tài liệu, chứng cứ khác để chứng minh vì vậy có căn cứ để điều tra làm rõ, cần chấp nhận.

[10] Về vật chứng vụ án: Đối với số ma túy còn lại và giấy gói ma túy khi thu giữ cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động của Đinh Văn V là công cụ phương tiện các bị cáo sử dụng vào việc trao đổi ma túy do đó cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước. Đối với 01 chiếc điện thoại di động của Lò Văn T không sử dụng vào việc phạm tội, cần trả lại cho bị cáo.

Đối với số tiền 400.000đồng thu giữ của Lò Văn T là số tiền do phạm tội mà có cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước; Đối với 270.000đồng là tiền riêng của bị cáo do đi lao động làm thuê mà có, không liên quan đến hành vi phạm tội, cần trả lại cho bị cáo. 4 Chấp nhận cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phù Yên đã trả lại cho anh Bạc Văn C 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDAWave BKS 26D1- 04849.

[11] Về biện pháp ngăn chặn: Cần áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự để tiếp tục tạm giam bị cáo bảo đảm công tác thi hành án hình sự.

[12] Các bị cáo thuộc diện gia đình chính sách (hộ nghèo, cận nghèo) do đó cần miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 249; điểm s,t khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Lò Văn T.

Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Đinh Văn V.

2. Tuyên bố bị cáo Lò Văn T phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo Đinh Văn V phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

3. Xử phạt Lò Văn T 20 (hai mươi) tháng tù.

Xử phạt Đinh Văn V 30 (ba mươi) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của các bị cáo tính từ ngày 20/8/2020.

4. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1, 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy vật chứng 01 phong bì niêm phong khi bắt quả tang, 01 phong bì niêm phong khi bắt quả tang đã bóc mở, 01 phong bì của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Sơn La đã niêm phong, Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen thu giữ của Đinh Văn V và số tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam 400.000 đồng, thu giữ của Lò Văn T.

Trả lại cho bị cáo Lò Văn T: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, màu đen và số tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam 270.000 đồng.

Chấp nhận cơ quan CSĐT công an huyện Phù Yên đã trả lại cho anh Bạc Văn C 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave BKS 26D1- 04849.

5.Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Các bị cáo Lò Văn T và Đinh Văn V được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

6. Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (05/01/2021). Người có quyền lợi liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2021/HS-ST ngày 05/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:19/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phù Yên - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về