Bản án 19/2019/HS-ST ngày 28/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LIÊN CHIỂU-TP ĐÀ NẴNG 

BẢN ÁN 19/2019/HS-ST NGÀY 28/02/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 02/2019/TLST- HS ngày 09 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2019/QĐXXST- HS ngày 14 tháng 02 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. NGUYỄN THỊ TH - Sinh ngày 11 tháng 11 năm 1986 tại Đà Nẵng; nơi ĐKNKTT và chỗ ở: tổ 52, phường X, quận Th, thành phố Đà Nẵng;  nghề nghiệp: buôn bán; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L (s) và bà Lê Thị K(c); có chồng là Ngô Quang Th và 03 con, con lớn nhất sinh năm 2008, con nhỏ nhất sinh năm 2018.

- Tiền án:

+  Ngày 17/02/2014, bị Tòa án nhân dân quận Thanh Khê xử phạt 18 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 22/2014/HS-ST.

+ Ngày 28/9/2015, bị Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 52/2015/HSST. Tổng hợp hình phạt 18 tháng tù của bản án số 22/2014/HS-ST, buộc chấp hành hình phạt chung  của hai bản án là 27 tháng tù. Chấp hành xong hình phạt ngày 04/6/2017.

- Tiền sự: chưa.

Bị cáo tại ngoại. (có mặt)

2. NGÔ QUANG TH (Tên gọi khác: Xí l) - Sinh ngày 27 tháng 11 năm 1978 tại Đà Nẵng; nơi ĐKNKTT: tổ 20, phường T, quận Th, thành phố Đà Nẵng; chỗ ở: tổ 37, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng;  nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Văn L (s) và bà Nguyễn Thị Mộng H (s); có vợ là Nguyễn Thị Th và 02 con, con lớn nhất sinh năm 2006, con nhỏ nhất sinh năm 2018.

- Tiền án: Ngày 22/12/2010, bị Tòa án nhân dân quận Thanh Khê xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” tại bản án số 103/2010/HSST. Chấp hành xong hình phạt ngày 27/4/2017.

- Tiền sự: Chưa.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 08/11/2018. (có mặt)

- Bị hại:

1. Anh Trần Hoàng Th – sinh năm 1994; trú tại: tổ 32, phường H, quận L,

thành phố Đà Nẵng. (vắng mặt)

2. Anh Nguyễn Văn D – sinh năm 1990; trú tại: 77 Nguyễn Nh, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng. (vắng mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:  Bà Nguyễn Thị Mộng H – sinh năm 1955; trú tại: 123 Nguyễn Ch, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 00’ phút ngày 12/8/2018, Ngô Quang Th điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, biển kiểm soát 43H9 - 9432 chở vợ là Nguyễn Thị Th đi từ nhà qua đường Hồ Qu vào đường Hà H hướng về đường Nguyễn Sinh S. Khi đến trước dãy nhà trọ Phú Cường B đường Hà H thuộc tổ 32, P. H, Q. L thì Th yêu cầu Th dừng xe lại để Th vào dãy phòng trọ xem có phòng trọ nào sơ hở thì trộm tài sản. Th xuống xe đi vào dãy nhà trọ còn Th thì ngồi trên xe chờ sẵn ở ngoài. Khi vào dãy trọ Th phát hiện phòng trọ đầu tiên của anh Trần Hoàng Th không khóa mà khép hờ nên vào trong thì phát hiện có một chiếc máy tính bảng nhãn hiệu Apple, model: Ipad Air, màu trắng để dưới nền nhà, nên Th nhanh chóng lấy trộm rồi đi ra ngoài lên xe của Th chờ sẵn rồi bỏ đi. Khoảng 20h30’ cùng ngày, sau khi Cơ quan Công an thông báo và yêu cầu trình diện, Th đem chiếc máy tính bảng trộm được đến giao nộp tại Công an phường H. Sau đó, Th và Th đã bỏ trốn.

Ngoài ra, khoảng 07h00’ ngày 25/9/2018, Th chở Th đi tìm nhà trọ để thuê, trên đường đi thì Th có nói với Th tìm được chỗ nào sơ hở thì lấy trộm. Khi Th và

Th đi ngang qua dãy nhà trọ tại số 77 đường Nguyễn Như Đ, phường H, quận C thì phát hiện phòng trọ của anh Nguyễn Văn D cửa không khóa, bên trong không có ai. Th dừng xe đứng ở ngoài đợi sẵn, Th đi vào phòng trọ lấy trộm một chiếc máy tính bảng hiệu Samsung màu trắng để dưới nền nhà, sau đó nhanh chóng ra ngoài và lên xe của Th chở đi. Chiếc máy tính bảng này, Th đã bán cho một người phụ nữ (không rõ lai lịch) trên đường Hùng V, TP. Đà Nẵng với giá 300.000 đồng và sử dụng tiêu xài cá nhân. Vụ việc được Cơ quan CSĐT Công an quận C tiến hành điều tra, sau đó Cơ quan CSĐT Công an quận Liên Chiểu tiến hành làm việc với Th và Th. Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thị Th và Ngô Quang Th đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. 

Tang vật tạm giữ:

- 01 (một) máy tính bảng nhãn hiệu Apple Ipad Air, màu trắng, số Imei: 351977065676888.

- 01 xe mô tô hiệu Honda Wave BKS: 43H9 - 9432;

- 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô BKS: 43H9 - 9432 mang tên Nguyễn Thị Mộng H.

- 01 file video hình ảnh camera có độ dài 56 giây, nội dung thể hiện hình ảnh của một nam và một nữ điều khiển xe mô tô đến trước số nhà 77 đường Nguyễn Như Đ, phường H, quận C.

Theo Kết luận số: 84/KL-HĐĐG và biên bản xác định giá trị tài sản bị xâm hại ngày 24/8/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Liên Chiểu kết luận: Giá trị SDCL của 01 máy tính bảng Ipad Air màu trắng bị xâm hại là 3.400.000 đồng.

Theo Kết luận số: 57/KL-HĐĐG và biên bản xác định giá trị tài sản bị xâm hại ngày 15/11/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Cẩm Lệ kết luận: Giá trị SDCL của 01 máy tính bảng hiệu Samsung Tad A 8.0 bị xâm hại là 4.941.000 đồng.

Qua điều tra, xe mô tô Honda Wave, biển kiểm soát 43H9 - 9432 là của bà Nguyễn Thị Mộng H cho con ruột là Ngô Quang Th mượn để làm phương tiện đi lại. Bà H không biết việc Th sử dụng xe mô tô để đi trộm cắp tài sản.

Ngày 24/10/2018, Cơ quan CSĐT Công an quận Liên Chiểu ra Quyết định xử lý vật chứng số: 81/CSĐT trả lại cho anh Trần Hoàng Th: máy tính bảng nhãn hiệu Apple Ipad Air, màu trắng, số Imei: 351977065676888. Anh Th đã nhận những đồ vật nêu trên và không có yêu cầu gì thêm.

Ngày 24/12/2018, Cơ quan CSĐT Công an quận Liên Chiểu ra Quyết định xử lý vật chứng số: 10/CSĐT trả lại cho bà Nguyễn Thị Mộng H 01 xe mô tô hiệu Honda Wave BKS: 43H9 - 9432 và 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô BKS: 43H9 - 9432, bà H đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm.

Về dân sự: Anh Trần Hoàng Th đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị can; Anh Nguyễn Văn D đã được gia đình các bị can bồi thường thiệt hại và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị can.

Tại bản cáo trạng số 04/CT- VKS ngày 08 tháng 01 năm 2019  của Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã truy tố:

- Nguyễn Thị Th về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

- Ngô Quang Th về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. 

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị HĐXX:

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm b, h, n, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự; Xử phạt Nguyễn Thị Th từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm 06 tháng tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự; Xử phạt Ngô Quang Th từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Quy trữ tại hồ sơ vụ án: 01 file video hình ảnh camera có độ dài 56 giây, nội dung thể hiện hình ảnh của một nam và một nữ điều khiển xe mô tô đến trước số nhà 77 đường Nguyễn Như Đ, phường H, quận C.

Các bị cáo Nguyễn Thị Th và Ngô Quang Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận gì với phần luận tội của Kiểm sát viên.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Nguyễn Thị Mộng H không có ý kiến tranh luận gì.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Đã nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình, rất ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà,  các bị cáo Nguyễn Thị Th và Ngô Quang Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng của VKS nhân dân quận Liên Chiểu đã truy tố. Xét lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của những bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, HĐXX có đủ cở sở kết luận: Khoảng 08 giờ 00’ phút ngày12/8/2018, tại phòng  trọ thuộc tổ 32, phường H, quận L, Nguyễn Thị Th có hành vi lén lút lấy trộm của anh Trần Hoàng Th 01 máy tính bảng Ipad Air trị giá 3.400.000 đồng, sau đó ra xe của Ngô Quang Th đang cảnh giới bên ngoài rồi tẩu thoát. Ngoài ra, khoảng 07h00’ ngày 25/9/2018, tại phòng trọ số 77 đường Nguyễn Như Đ, phường H, quận C, cũng với hành vi tương tự, Nguyễn Thị Th và Ngô Quang Th đã lén lút lấy trộm của anh Nguyễn Văn D 01 máy tính bảng hiệu Samsung trị giá 4.941.000 đồng. Tổng giá trị tài sản mà các bị cáo chiếm đoạt là: 8.341.000 đồng (Tám triệu ba trăm bốn mươi mốt ngàn đồng). Hành vi của các bị cáo đã phạm tội Trộm cắp tài sản quy định tại Điều 173 của Bộ luật hình sự như bản cáo trạng số 04/CT- VKS ngày 08.01.2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã  truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét các bị cáo Nguyễn Thị Th và Ngô Quang Th đã cùng nhau hai lần thực hiện việc hành vi trộm cắp tài sản. Bị cáo Th khởi xướng đồng thời giữ vai trò là người trực tiếp lén lút chiếm đoạt tài sản của những người bị hại, bị cáo Th giữ vai trò cảnh giới và lái xe. Cả hai bị cáo đều có nhân thân rất xấu, trong đó bị cáo Nguyễn Thị Th đã có 02 tiền án đều về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích. Tại Bản án số 52/2015/HSST ngày 28/9/2015 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu đã xác định Th phạm tội thuộc trường hợp “Tái phạm” nhưng nay bị cáo tiếp tục phạm tội do cố ý. Lần phạm tội “Trộm cắp tài sản” này của bị cáo thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự và phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự  “Phạm tội hai lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Bị cáo Ngô Quang Th có một tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 22/12/2010, bị Tòa án nhân dân quận Th xử phạt 08 năm tù, chưa được xóa án tích nhưng lại tiếp tục phạm tội do cố ý. Hành vi của bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự đồng thời  phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội hai lần trở lên” và  “Tái phạm” quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Do đó mức án của bị cáo Th phải cao hơn bị cáo Th như ý kiến đề xuất của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng tại phiên tòa là phù hợp.

[4] Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trị an xã hội tại địa phương. Do vậy cần thiết cách ly ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục đối với các bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[5] Tuy nhiên, xét quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội gây thiệt hại không lớn, đã bồi thường khắc phục hậu quả cho bị hại; hai bị cáo có quan hệ vợ chồng hiện có con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, hoàn cảnh gia đình khó khăn; bị hại là anh Trần Hoàng Th và anh Nguyễn Văn D có đơn xin giảm nhẹ hình phạt đối với cả hai bị cáo. Hội đồng xét xử sẽ vận dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo theo quy định. Ngoài ra, xét khi phạm tội bị cáo Th là phụ nữ có thai nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm n khoản 1 Điều 51của Bộ luật hình sự nên mức án đại diện Viện kiểm sát đề xuất đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc, HĐXX sẽ cân nhắc khi lượng hình.

Trong vụ án này, bà Nguyễn Thị Mộng H cho Ngô Quang Th mượn xe mô tô để làm phương tiện đi lại, bà Hường không biết Th sử dụng để đi trộm cắp tài sản nên Cơ quan CSĐT Công an quận Liên Chiểu không đề cập xử lý là có căn cứ.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, bị hại là anh Trần Hoàng Th, anh Nguyễn Văn D vắng mặt. Hồ sơ vụ án thể hiện, anh Th đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm. Anh D đã được gia đình các bị cáo bồi thường khắc phục hậu quả xong và không có yêu cầu gì khác nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[7] Về xử lý vật chứng: Vật chứng của vụ án được trả lại cho chủ sở hữu theo các Quyết định xử lý vật chứng số: 81/CSĐT  ngày 24.10.2018 và số 10/CSĐT ngày 24.12.2018 của Cơ quan CSĐT Công an quận Liên Chiểu là phù hợp. Đối với 01 file video hình ảnh camera có độ dài 56 giây thì cần quy trữ tại hồ sơ vụ án.

[8] Về án phí: Theo quy định tại Nghị Quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án thì các bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Thị Th và Ngô QuangTh (Tên gọi khác: Xí l) phạm tội "Trộm cắp tài sản".

-  Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173; điểm b, h, n, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 điều 52 của Bộ luật hình sự.

- Xử phạt: bị cáo Nguyễn Thị Th 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt giam thi hành án.

-  Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, h, s khoản 1, khoản 2  Điều 51; điểm g, h  khoản 1 điều 52 của Bộ luật hình sự.

- Xử phạt: bị cáo Ngô Quang Th (Tên gọi khác: Xí l) 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 08.11.2018.

* Về xử lý vật chứng: Quy trữ tại hồ sơ vụ án 01 file video hình ảnh camera có độ dài 56 giây, nội dung thể hiện hình ảnh của một nam và một nữ điều khiển xe mô tô đến trước số nhà 77 đường Nguyễn Như Đ, phường H, quận C.

2. Về án phí:  Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ- UBTVQH14.

Các bị cáo Nguyễn Thị Th và Ngô Quang Th, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo đối với bản án: Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Riêng những bị hại vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 02 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2019/HS-ST ngày 28/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:19/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Liên Chiểu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về