TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 19/2019/HS-ST NGÀY 26/02/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 26 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hoà, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 14/2019/TLST-HS ngày 28 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:
Đoàn Quang T (T), sinh năm 1989, tại Bến Tre; Nơi thường trú: Số 99/17T, phường H, quận P, thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đã cư trú: Ấp N, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ văn hóa: không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam. Con ông Đoàn Quang M và bà Nùng Thị M; bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/10/2018 đến nay (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Đoàn Quang M, sinh năm 1964. (có mặt)
Địa chỉ: Số 46C L, phường H, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.
2/ Ngô Bình T, sinh năm 1981. (vắng mặt)
3/ Lê Tú T, sinh năm 1965. (vắng mặt)
Cùng địa chỉ: Số 137/5 A, phường 14, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người tham gia tố tụng khác:
+ Người làm chứng: Nguyễn Văn C (vắng mặt); Trần Hoài N (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Đoàn Quang T là người nghiện ma túy, khoảng 21 giờ ngày 20/10/2018, bị cáo T điều khiển xe mô tô, biển kiểm soát 52M5 – 4902 đến quận 11, thành phố Hồ Chí Minh gặp người thanh niên tên Tèo (không rõ nhân thân lai lịch) mua 01 gói chất ma túy với giá 300.000 đồng để sử dụng. Sau đó bị cáo T cất giấu gói ma túy vừa mua vào túi quần jean phía sau, bên phải và điềukhiển xe mô tô về nhà người thân ở xã H, huyện Đ, tỉnh Long An. Đến khoảng 00 giờ 30 phút ngày 21/10/2018, bị cáo T điều khiển xe mô tô đến địa phận ấp B, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An thì bị lực lượng Công an huyện Đức Hòa kiểm tra phát hiện, bắt quả tang tạm giữ bị cáo cùng tang vật để điều tra xử lý.
Tang vật tạm giữ gồm:
- 01 bịch nylon hàn kín bên trong có chứa tinh thể trong suốt (bị cáo T khai đó là ma túy mua về để sử dụng).
- 01 xe mô tô Wave, biển số 52M5-4902, số máy CE11000505964, số khung: LLCXCHLL7Y1005964;
Tại bản kết luận giám định số 4351/C09B ngày 24/10/2018 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh – Tổng cục cảnh sát kết luận: Tinh thể màu trắng đựng trong 01 gói nylon hàn kín được niêm phong gửi đến giám định là chất ma túy, có khối lượng: 0.4041 gam, loại Methamphetamine (Phân viện khoa học hình sự thành phố Hồ Chí Minh – Tổng cục cảnh sát, Bộ công an hoàn lại mẫu vật còn lại sau giám định có trọng lượng: 0.3435 gam được niêm phong).
Tại bản cáo trạng số 13/CT-VKSĐH ngày 25 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hoà, tỉnh Long An truy tố bị cáo Đoàn Quang T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).
Tại phiên toà, Kiểm sát viên sau khi phân tích tính chất và mức độ nguy hiểm xã hội của hành vi vi phạm pháp luật mà bị cáo Đoàn Quang T gây ra; đồng thời căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); tuyên bố bị cáo Đoàn Quang T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; xử phạt bị cáo Đoàn Quang T mức hình phạt từ 01 năm 6 tháng tù đến 2 năm tù.
Đồng thời đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, về tang vật chứng:
- Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong là ma túy trọng lượng 0.3435 gam, loại Methamphetamine của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh trả lại sau giám định.
- Đối với 01 xe mô tô Wave, biển số 52M5-4902, số máy CE11000505964, số khung: LLCXCHLL7Y1005964, đây là tài sản hợp pháp của ông Đoàn Quang M (do anh Ngô Bình T đứng tên trên Giấy đăng ký mô tô, xe máy, anh Tân bán lại cho chị Lê Tú T, chị T bán lại cho ông Đoàn Quang M, việc mua bán chưa làm thủ tục sang tên); ông M cho bị cáo T mượn để đi lại, ông M không biết bị cáo T dùng xe để thực hiện hành vi phạm tội nên đề nghị trả lại cho ông Đoàn Quang M.
Đối với người thanh niên tên Tèo (không rõ nhân thân lai lịch) là người bán ma túy cho bị cáo T tại quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh, do không xác định được nhân thân lai lịch, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau nên đề nghị không xem xét.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Đoàn Quang M trình bày tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa: Ông là cha ruột của bị cáo T, xe mô tô Wave, biển số 52M5-4902, số máy CE11000505964, số khung: LLCXCHLL7Y1005964 do anh Ngô Bình T đứng tên trên Giấy đăng ký mô tô, xe máy, anh Tân bán lại cho chị Lê Tú T, chị T bán lại cho ông, việc mua bán chưa làm thủ tục sang tên. Do bị cáo T không có phương tiện đi lại nên ông cho mượn để đi lại, ông không biết bị cáo T dùng xe để mua ma túy. Nay ông đề nghị được nhận lại chiếc xe mô tô này.
Tại phiên tòa bị cáo Đoàn Quang T hoàn toàn nhìn nhận hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa truy tố, không đưa ra chứng cứ nào minh oan chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đức Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Tại phiên tòa, vắng mặt những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng nhưng những người này đã có lời khai trong quá trình điều tra và việc vắng mặt này không gây trở ngại cho việc xét xử nên căn cứ Điều 292, 293 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2]. Lời khai nhận tội của bị cáo Đoàn Quang T trước Tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang vào lúc 00 giờ 30 phút ngày 21 tháng 10 năm 2018, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng cùng với bản kết luận giám định số 4351/C09B ngày 24/10/2018 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh -Tổng cục Cảnh sát Bộ Công an và phù hợp với nội dung bản cáo trạng. Thấy rằng, bị cáo Đoàn Quang T là người nghiện ma túy, khoảng 00 giờ 30 phút ngày 21/10/2018, tại ấp B, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An, bị cáo Đoàn Quang T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy tổng hợp dạng đá, loại Methamphetamine, trọng lượng 0.4041 gam trong túi quần jean phía sau, bên phải để sử dụng thì bị lực lượng Công an huyện Đức Hòa phát hiện bắt quả tang.
Từ phân tích trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận bị cáo Đoàn Quang T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).
Như vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An truy tố bị cáo Đoàn Quang T với tội danh và điều luật trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3]. Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội. Hành vi này đã xâm hại trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây thiệt hại lớn về kinh tế, gây tổn hại sức khỏe con người, làm suy thoái nòi giống, gây mất trật tự xã hội.
Khi thực hiện hành vi, bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được hậu quả nghiêm trọng của ma túy đối với xã hội và bản thân bị cáo. Bị cáo biết rõ ma túy là một trong những nguyên nhân của nhiều tội phạm khác, nhiều căn bệnh hiểm nghèo, bị nghiêm cấm vận chuyển, mua bán, tàng trữ dưới bất kỳ hình thức nào nhưng để thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy, bị cáo vẫn bất chấp pháp luật thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo cần được xử lý nghiêm theo pháp luật hình sự, do đó cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
[4]. Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo T phạm tội không có tình tiết tăng nặng. Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự. Trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Ngoài ra, bị cáo T có thời gian phục vụ công tác dân quân thường trực phường H, quận P, thành phố Hồ Chí Minh và đạt thành tích tốt trong năm 2009, 2010; được Ủy bân mặt trận Tổ quốc phường H tặng giấy khen trong phong trào phòng chống tội phạm năm 2009. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) nên khi áp dụng hình phạt cho bị cáo có xem xét giảm nhẹ một phần.
Từ phân tích [3] và [4], xét theo lời đề nghị của Kiểm sát viên về áp dụng hình phạt tù có thời hạn và mức hình phạt đối với bị cáo Đoàn Quang T là phù hợp nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[5]. Về tang vật chứng:
Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:
- Đối với 01 gói niêm phong là ma túy trọng lượng 0.3435 gam, loại Methamphetamine của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh trả lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy;
- Đối với 01 xe mô tô Wave, biển số 52M5-4902, số máy CE11000505964, số khung: LLCXCHLL7Y1005964, đây là tài sản hợp pháp của ông Đoàn Quang M (do anh Ngô Bình T đứng tên trên Giấy đăng ký mô tô, xe máy, anh Tân bán lại cho chị Lê Tú T, chị T bán lại cho ông Đoàn Quang M, việc mua bán chưa làm thủ tục sang tên); ông M cho bị cáo T mượn để đi lại, ông M không biết bị cáo T dùng xe để thực hiện hành vi phạm tội nên xem xét trả lại cho ông Đoàn Quang M.
[6]. Đối với người thanh niên tên Tèo (không rõ nhân thân lai lịch) là người bán ma túy cho bị cáo T tại quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh, do không xác định được nhân thân lai lịch, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017);
Tuyên bố bị cáo Đoàn Quang T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt: Bị cáo Đoàn Quang T 01 (một) năm 6 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/10/2018.
Áp dụng khoản 1 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tiếp tục tạm giam bị cáo Đoàn Quang T 45 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 26/02/2019) để đảm bảo cho việc kháng cáo, kháng nghị và thi hành án.
Về tang vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:
- Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong là ma túy trọng lượng 0.3435 gam, loại Methamphetamine của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh trả lại sau giám định số 4351.
- Trả lại cho ông Đoàn Quang M: 01 xe mô tô Wave, biển số 52M5-4902, số máy CE11000505964, số khung: LLCXCHLL7Y1005964.
Tang vật trên do Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Hòa, tỉnh Long An đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 55-12/02/2019 ngày 12 tháng 02 năm 2019.
Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án buộc bị cáo Đoàn Quang T nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm sung vào Ngân sách Nhà nước.
Án này là sơ thẩm, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 19/2019/HS-ST ngày 26/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 19/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/02/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về