TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 19/2019/HS-PT NGÀY 30/01/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 30 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 20/2019/TLPT-HS ngày 07 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo Nguyễn Văn C do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án Hình sự sơ thẩm số: 120/2018/HS-ST ngày 26 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu.
- Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Văn C, sinh năm 1991, tại tỉnh Tây Ninh; nơi C trú: Ấp C1, xã C2, huyện C3, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam, con ông Nguyễn Văn A, sinh năm 1952 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1957; vợ Nguyễn Thị T, sinh năm 1987 và 01 người con, sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự lần nào và chưa bị xử lý vi phạm hành chính lần nào; bị bắt tạm giữ ngày 23-7-2018, chuyển tạm giam ngày 31-7-2018 đến ngày 19-9-2018 được thay thế biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp cho bảo lĩnh; bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.
Ngoài ra, trong vụ án còn có bị cáo Bùi Chí K không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.
- Bị hại: Anh Lâm Thanh P, sinh năm 1981; nơi C trú: Ấp P1, xã P2, huyện P3, tỉnh Tây Ninh; Tòa án không triệu tập.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Nguyễn Văn A; sinh năm 1952; nơi C trú: Ấp C1, xã C2, huyện C3, tỉnh Tây Ninh; Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 21-7-2018, Nguyễn Văn C và Bùi Chí K tổ chức uống bia với những người làm chung công ty tại quán No.1 thuộc Khu Công nghiệp Phước Đông - Bời Lời. Đến 16 giờ 30 phút cùng ngày, K điều khiển xe mô-tô, biển số: 68S1-173.62 chở C đến quán Karaoke An Phát để tiếp tục uống bia và ca hát. Khi đến gần cổng chính Khu Công nghiệp Phước Đông thuộc ấp P1, xã P2, huyện P3, tỉnh Tây Ninh, cả hai nhìn thấy chị Nguyễn Thị Y đang điều khiển xe mô-tô chạy cùng chiều nên trêu ghẹo và rủ đi hát karaoke thì chị Ydừng xe lại cãi nhau với hai bị cáo. Lúc này, anh Lâm Thanh P là anh họ của chị Y điều khiển xe mô-tô chạy ngang thấy và dừng xe lại cãi nhau với hai bị cáo.
Sau đó, anh P dùng nón bảo hiểm đánh trúng mặt K 01 cái thì bị C cầm nón bảo hiểm đánh trúng đầu 01 cái làm anh P lùi về phía sau; K và C tiếp tục cầm nón bảo hiểm đuổi theo anh P; C cầm nón bảo hiểm đánh anh P không trúng nhưng làm anh P bị ngã xuống đường thì K xông đến cầm nón bảo hiểm đánh 03 cái trúng mặt, đầu anh P gây thương tích và bỏ đi.
Khi đi được một đoạn, K dùng tay sờ trên mặt của mình dính máu nên tiếp tục quay lại cầm nón bảo hiểm đánh 01 cái trúng đầu anh P thì được mọi người can ngăn. Anh P được gia đình đưa đến Bệnh viện Chợ Rẫy, Thành phố Hồ Chí Minh cấp cứu và điều trị đến ngày 05-8-2018 xuất viện có đơn yêu cầu xử lý hình sự đối với Nguyễn Văn C và Bùi Chí K.
Kết luận giám định pháp y về thương tích số: 168/2018/TgT ngày 27-8-2018 của Trung tâm Pháp y tỉnh Tây Ninh xác định anh Lâm Thanh P bị thương tích 46%.
Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số: 120/2018/HS-ST ngày 26 tháng 11 năm 2018 của Toà án nhân dân huyện Gò Dầu đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Căn cứ vào điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C 05 (năm) tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 23-7-2018 đến ngày 19-9-2018.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Bùi Chí K, các biện pháp tư pháp, án phí, quyền kháng cáo, quyền và nghĩa vụ thi hành án theo Luật Thi hành án dân sự.
Ngày 06 tháng 12 năm 2018, bị cáo Nguyễn Văn C có đơn kháng cáo, nội dung xin được giảm nhẹ hình phạt, với những lý do sau: Bản án sơ thẩm xử phạt bị cáo 05 (năm) năm tù là quá nặng; bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã bồi thường một phần thiệt hại cho bị hại; hậu quả xảy ra bên bị hại cũng có lỗi; bị cáo có cha là ông Nguyễn Văn A là người có công với nước. Mặt khác, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, là lao động chính trong gia đình, phải nuôi vợ và con nhỏ.
Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo;
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh đề nghị: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn C; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bị cáo không tranh luận.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Xin được xem xét hoãn chấp hành án khoảng một tháng để sắp xếp công việc làm ăn của gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Xét các hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng của cấp sơ thẩm đều hợp pháp. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo xác định trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử vụ án tại cấp sơ thẩm không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng của cấp sơ thẩm.
[2] Về tội danh: Vào lúc 16 giờ 30 phút ngày 21-7-2018, bị cáo K và bị cáo C có hành vi trêu ghẹo chị Nguyễn Thị Y thì chị Ydừng xe lại cãi nhau với hai bị cáo; anh họ của chị Y là anh Lâm Thanh P đến bênh vực, hai bên gây gỗ, anh Pdùng nón bảo hiểm đánh trúng mặt bị cáo K 01 cái thì bị C cầm nón bảo hiểm đánh trúng đầu anh P 01 cái làm anh P lùi về phía sau; hai bị cáo tiếp tục cầm nón bảo hiểm đuổi theo anh Phong; C cầm nón bảo hiểm đánh anh P không trúng nhưng làm anh P bị ngã xuống đường thì K xông đến cầm nón bảo hiểm đánh 03 cái trúng mặt, đầu anh P, sau đó K còn quay lại đánh thêm một cái vào đầu anh P; hậu quả để lại anh P bị mất sức lao động 46%. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Văn C về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 3 Điều 134 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng tội.
[3] Vụ án mang tính chất rất nghiêm trọng; hành vi phạm tội của các bị cáo tuy có đồng phạm nhưng mang tính chất giản đơn. Hành vi này là nguy hiểm cho xã hội, có dùng hung khí nguy hiểm, có tính chất côn đồ; đã xâm phạm đến sức khỏe của người khác, hậu quả gây thương tích cho bị hại mất sức lao động 46% nên cần nghiêm trị.
[4] Tuy giữa Bùi Chí K và Nguyễn Văn C không có mâu thuẫn gì với anh P từ trước, nhưng chỉ vì anh P bênh vực chị Y và chủ động đánh bị cáo K trước làm chảy máu, nên cả hai bị cáo dùng nón bảo hiểm là hung khí nguy hiểm đuổi đánh anh Phong; trong đó: Bị cáo C đánh trúng anh P 01 cái vào vùng đầu, đòn tấn công sau không trúng nhưng làm anh P bị té ngã, tạo điều kiện thuận lợi cho bị cáo K đánh anh Pliên tiếp 03 cái vào vùng mặt, đầu của anh Prồi bỏ đi, nhưng do bị chảy máu (bị anh P đánh trước) nên bị cáo K bực tức quay lại đánh thêm một cái vào đầu anh P; hậu quả gây thương tích cho bị hại mất sức lao động 46%, đây là hậu quả chung do hai bị cáo gây ra cho người bị hại. Song, cũng cần thấy rằng về Cờng độ tấn công của bị cáo K quyết liệt hơn bị cáo C và K đã đánh trúng anh P tổng cộng 04 cái; C đánh trúng anh P 01 cái, nên tỉ lệ thương tật của bị hại là do bị cáo K gây ra nhiều hơn bị cáo C; do đó bị cáo K phải chịu trách nhiệm chính trong vụ án; bị cáo C phải chịu mức án thấp hơn bị cáo K là phù hợp.
[5] Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét về nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo Nguyễn Văn C như: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tác động gia đình bồi thường cho phía bị hại 20.000.000 đồng và trong vụ án này bị hại cũng có lỗi; đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[6] Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, bị cáo C tiếp tục bồi thường xong số tiền còn lại là 9.646.000 đồng, theo Biên lai thu số: 0003749 ngày 04-01-2019 và nộp bổ sung Giấy chứng nhận tham gia dân công hỏa tuyến của cha ruột là ông Nguyễn Văn A và Quyết định số: 2344/QĐ-BTL ngày 29-9-2017 của Bộ Tư lệnh Quân khu 7 về việc thực hiện chế độ trợ cấp một lần đối với dân công hỏa tuyến. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[7] Tại khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự quy định: “1. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này…”. Do bị cáo C có hai tình tiết giảm nhẹ mới ở cấp phúc thẩm và có hai tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm áp dụng thêm khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị cáo C đồng thời xử bị cáo mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng cũng đủ tác dụng giáo dục răn đe và phòng ngừa.
[8] Từ những phân tích nêu trên, chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn C; không chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên; sửa bản án sơ thẩm.
[9] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo Nguyễn Văn C không phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm.
[10] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
[11] Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm có những sai sót, cần rút kinh nghiệm như sau:
- Tòa án cấp sơ thẩm xác định anh Lâm Thanh P tham gia tố tụng với tư cách là “Người bị hại” là không chính xác, theo quy định tại Điều 62 của Bộ luật Tố tụng hình sự phải xác định đúng là “Bị hại”;
- Khi viện dẫn điều luật áp dụng Tòa án cấp sơ thẩm không viện dẫn thêm Điều 38 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự là thiếu sót, cần bổ sung ở cấp phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355 và Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn C.
3. Sửa Bản án Hình sự sơ thẩm số: 120/2018/HS-ST ngày 26 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh.
4. Căn cứ vào điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 38 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C 03 (ba) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”; thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án; được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 23-7-2018 đến ngày 19-9-2018.
5. Ghi nhận bị cáo Nguyễn Văn C đã nộp bồi thường thiệt hại số tiền 9.646.000 đồng, theo Biên lai thu số: 0003749 ngày 04-01-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh.
6. Về án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Văn C không phải chịu.
7. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
8. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 19/2019/HS-PT ngày 30/01/2019 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 19/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/01/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về