Bản án 19/2019/HNGĐ-ST ngày 25/09/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 19/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/09/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 25 tháng 9 năm 2019, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, xét xử công khai sơ thẩm vụ án thụ lý số 92/2019/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 5 năm 2019 về “Tranh chấp hôn nhân gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Thân Thị Đ, sinh năm 1984.

Địa chỉ: Số 50B, L, phường V, quận Hai B, thành phố Hà Nội, vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Trương Văn T, sinh năm 1976.

Địa chỉ: Thôn G, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 21/5/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Thân Thị Đ trình bày: Giữa nguyên đơn và bị đơn là anh Trương Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa ngày 04/10/2013. Cuộc sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh T không quan tâm đến vợ con, không có trách nhiệm với gia đình. Chị Đ và anh T đã sống ly thân từ cuối năm 2014 cho đến nay. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị Đ đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Trương Văn T.

Về con chung: Chị Đ khai chị và anh T có một con chung, cháu tên là Trương Bảo A, sinh ngày 04/11/2013. Hiện cháu A đang ở với chị Đ, chị Đ đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu A, yêu cầu anh Trương Văn T phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị mỗi tháng là 3.000.000đ (Ba triệu đồng) cho đến khi cháu A đủ 18 tuổi.

Về tài sản: Chị Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 17/7/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Trương Văn T trình bày: Anh và chị Thân Thị Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa ngày 04/10/2013. Vợ chồng chung sống được hai ngày thì chị Đ bỏ về nhà bố mẹ đẻ tại phường V, quận H, thành phố Hà Nội sinh sống cho đến nay. Quá trình chung sống vợ chồng không có mâu thuẫn gì, nay chị Đ đề nghị Toà án giải quyết ly hôn, anh T không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Anh Trương Văn T khai, anh và chị Đ có một con chung, cháu tên là Trương Bảo A, sinh ngày 04/11/2013. Hiện cháu A đang ở với chị Đ, nếu ly hôn anh T đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu A, không yêu cầu chị Đ phải cấp dưỡng nuôi con chung, nếu chị Đ nuôi cháu A thì anh T không cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Đ.

Về tài sản: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung phát biểu quan điểm: Quá trình nhận đơn khởi kiện, thụ lý, giải quyết và quyết định đưa vụ án ra xét xử và tại phiên toà, Hội đồng xét xử và thư ký đã chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Đương sự đã được thực hiện các quyền của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Chị Đ đề nghị Toà án giải quyết cho ly hôn với anh T, đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Bảo A, yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị là phù hợp với quy định tại Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, mức cấp dưỡng theo yêu cầu của chị Đ là quá cao so với mức thu nhập bình quân của địa phương. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Đ và xem xét mức cấp dưỡng 1.000.000/ tháng là phù hợp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Anh T đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải nhưng anh T vẫn vắng mặt nên Toà án không tiến hành hoà giải được vụ án. Anh T cũng đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn không có mặt, chị Đ vắng mặt tại phiên toà nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt anh T và chị Đ là phù hợp với quy định tại khoản 2, Điều 227; khoản 3, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về hôn nhân: Chị Thân Thị Đ và anh Trương Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, như vậy là hôn nhân hợp pháp. Theo anh T, vợ chồng chung sống với nhau được hai ngày thì chị Đ bỏ về quê ngoại ở Hà Nội sinh sống. Theo chị Đ đến năm 2014 thì vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Theo biên bản xác minh tình trạng hôn nhân ngày 18/7/2019 có xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã Hà Long thì nguyên nhân là do anh T không có việc làm ổn định nên vợ chồng xảy ra cãi cọ nhau, đến năm 2014 chị Đ đưa cháu A là con chung của vợ chồng ra Hà Nội và sống ly thân với anh T từ cuối năm 2014 cho đến nay. Một thời gian dài vợ chồng không còn chung sống và quan tâm đến nhau, chứng tỏ cuộc sống vợ chồng đã trở nên trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị Đ được ly hôn anh T là phù hợp.

[3]. Về con chung: Chị Đ và anh T đều thừa nhận vợ chồng có 01 con chung, cháu tên là Trương Bảo A, sinh ngày 04/11/2013. Mặt khác, cháu A được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân nên đủ cơ sở khẳng định cháu A là con chung của chị Đ và anh T. Nguyện vọng được nuôi dưỡng cháu A của chị Đ và anh T là hoàn toàn chính đáng. Tuy nhiên, cháu A còn nhỏ, từ khi sinh ra đến nay do chị Đ chăm sóc nuôi dưỡng. Vì vậy, để tránh xáo trộn về tâm sinh lý cũng như việc học tập của cháu, nên giao cháu A cho chị Đ nuôi dưỡng là phù hợp. Chị Đ yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng là 3.000.000 đồng. Mức cấp dưỡng theo yêu cầu của chị Đ là quá cao so với mức thu nhập bình quân ở địa phương nên chỉ chấp nhận mức cấp dưỡng hàng tháng là 1.000.000 đồng.

[4]. Về tài sản: Chị Đ và anh T không yêu cầu nên miễn xét.

[5]. Về án phí: Chị Thân Thị Đ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân theo quy định của pháp luật.

các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 56; Điều 81, 82, 83, 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 6; khoản 5, khoản 6, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Khoản 2, Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Thân Thị Đ và anh Trương Văn T.

2. Về con chung: Công nhận cháu Trương Bảo A, sinh ngày 04/11/2013 là con chung của chị Thân Thị Đ và anh Trương Văn T. Giao cháu A cho chị Đ trực tiếp nuôi dưỡng, anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Đ mỗi tháng là 1.000.000đ (Một triệu đồng). Thời hạn cấp dưỡng tính từ tháng 9 năm 2019 cho đến khi cháu A đủ 18 tuổi. Anh T có quyền đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Kể từ khi chị Đ có đơn yêu cầu thi hành án phần cấp dưỡng nuôi con, nếu chưa thi hành án, anh T còn phải chịu thêm khoản tiền lãi trên số tiền và thời gian chưa thi hành án. Khoản tiền lãi chậm thi hành án được tính bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về án phí: Chị Thân Thị Đ phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân nhưng được trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị Đ đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2017/0000391 ngày 23/5/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hà Trung. Chị Đ đã nộp đủ án phí.

Anh T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về cấp dưỡng định kỳ.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Đ và anh T có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2019/HNGĐ-ST ngày 25/09/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:19/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về