Bản án 18/2019/HNGĐ-ST ngày 25/09/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 18/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/09/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 25 tháng 9 năm 2019, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, xét xử công khai sơ thẩm vụ án thụ lý số 137/2019/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 8 năm 2019 về “Tranh chấp hôn nhân gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1972.

Địa chỉ: Thôn Q, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa, vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Vũ Văn H, sinh năm 1969.

Địa chỉ: Thôn Q, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 01/8/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị H trình bày: Giữa nguyên đơn và bị đơn là anh Vũ Văn H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa ngày 03/7/1992. Cuộc sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến tháng cuối năm 2001 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh H chơi bài bạc nên vợ chồng thường xuyên cãi chửi nhau. Chị H và anh H đã sống ly thân từ cuối năm 2017 cho đến nay. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị H đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Vũ Văn H.

Về con chung: Chị H khai chị và anh H có hai con chung, các cháu tên là Vũ Văn H, sinh ngày 22/7/1993 và cháu Vũ Văn D, sinh ngày 22/3/1995. Hiện cháu H và cháu D đã thành niên nên chị H không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về tài sản: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 08/08/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Vũ Văn H trình bày: Anh và chị Nguyễn Thị H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa ngày 03/7/1992. Cuộc sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc từ khi kết hôn đến tháng 10 năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do chị H có nhắn tin tình cảm qua lại với người con trai khác nên vợ chồng xảy ra cãi cọ, từ đó anh H sinh ra chơi bài bạc nên mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Nay chị H đề nghị Toà án giải quyết ly hôn anh H không đồng ý ly hôn, đề nghị được đoàn tụ.

Về con chung: Anh Vũ Văn H khai, anh và chị H có hai con chung, các cháu tên là Vũ Văn H, sinh ngày 22/7/1993 và cháu Vũ Văn D, sinh ngày 22/3/1995. Hiện cháu H và cháu D đã thành niên nên anh H không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về tài sản: Anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Anh H đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn không có mặt, chị H vắng mặt tại phiên toà nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt anh H và chị H là phù hợp với quy định tại khoản 2, Điều 227; khoản 3, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Vũ Văn H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, như vậy là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh H nghi kỵ tình cảm vợ chồng dẫn đến chơi bời, vợ chồng thường xuyên cãi cọ, mắng chửi nhau.Từ cuối năm 2017 cho đến nay vợ chồng sống ly thân. Như vậy, cuộc sống chung vợ chồng giữa chị H và anh H luôn tồn tại mâu thuẫn, xung đột. Tình cảm vợ chồng không những không hàn gắn được mà còn trở nên trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị H được ly hôn anh H là phù hợp.

[3]. Về con chung: Chị H và anh H thừa nhận vợ chồng có 02 con chung, các cháu tên là Vũ Văn H, sinh ngày 22/7/1993 và cháu Vũ Văn D, sinh ngày 22/3/1995. Hiện cháu H và cháu D đã thành niên, chị H và anh H không yêu cầu Toà án giải quyết nên miễn xét.

[4]. Về tài sản: Chị H và anh H không yêu cầu nên miễn xét.

[5]. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân theo quy định của pháp luật.

các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 6; khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số  326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị H và anh Vũ Văn H.

2. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị H đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2017/0000493 ngày 01/8/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hà Trung. Chị H đã nộp đủ án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Chị H và anh H có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

268
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2019/HNGĐ-ST ngày 25/09/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:18/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về