Bản án 19/2019/HNGĐ-ST ngày 06/05/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN LỨC - TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 19/2019/HNGĐ-ST NGÀY 06/05/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 06 tháng 5 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 17/2019/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 01 năm 2019 về việc ”Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 3 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 14/2019/QĐST-HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: bà Ngô Thị Đ, sinh năm: 1966

Địa chỉ cư trú: ấp 9 xã L, huyện B, tỉnh Long An (có mặt).

2. Bị đơn: ông Phạm Văn T, sinh năm: 1965

Địa chỉ cư trú: ấp 9 xã L, huyện B, tỉnh Long An (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 19/11/2018, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn bà Ngô Thị Đ trình bày:

Bà và ông Phạm Văn T cưới nhau năm 1984, có tổ chức cưới hỏi, được gia đình hai bên đồng ý và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Lương Hòa, huyện Bến Lức vào ngày 17/9/2007.

Sau khi cưới bà và ông T sống chung tại xã Lương Hòa, huyện Bến Lức. Cuộc sống chung của vợ chồng hạnh phúc đến khoảng năm 2009-2010 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vả, ông T hay nhậu, cờ bạc, có quan hệ với người phụ nữ khác, bà có khuyên nhủ nhưng ông T không sửa đổi. Hiện tại bà và ông T vẫn sống chung nhà nhưng không ai quan tâm đến ai. Nay xét thấy tình cảm không con nên bà yêu cầu ly hôn.

Về con chung: bà và ông T có 03 con chung tên Phạm Thị T, sinh năm: 1987, Phạm Văn T, sinh năm: 1990, Phạm Thị Kim N, sinh năm: 1997, hiện nay đã trưởng thành.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Bị đơn ông Phạm Văn T không có lời trình bày.

Vụ án đã được Tòa án tiến hành hòa giải nhưng không thực hiện được do ông T vắng mặt.

Tại phiên tòa, ông Nguyễn Tấn Phát - đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tuân theo pháp luật tố tụng và nguyên đơn trong vụ án đã chấp hành pháp luật kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Riêng bị đơn mặc dù đã được tòa án tống đạt văn bản tố tụng nhưng vắng mặt tại phiên tòa.

Về nội dung vụ án: Xét yêu cầu ly hôn của bà Ngô Thị Đ là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân gia đình chấp nhận cho bà Đ được ly hôn với ông T. Về con chung: tất cả con chung đã trưởng thành nên không xem xét. Về tài sản chung, nợ chung: không có nên không xem xét.

Chứng cứ mà bà Đ cung cấp trong vụ án là: Giấy chứng nhận kết hôn; Bản sao giấy khai sinh con; Bản sao sổ hộ khẩu gia đình và CMND của bà Đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Bà Ngô Thị Đ khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Phạm Văn T. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

Về thủ tục xét xử vắng mặt bị đơn ông Phạm Văn T: Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng tại nơi cư trú của ông T, ông T đã được thông báo về việc Tòa án thụ lý vụ án, về phiên kiểm tra tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, về thời gian xét xử sơ thẩm nhưng vẫn vắng mặt, cũng không có lời trình bày hay ý kiến phản hồi gửi cho Tòa án. Căn cứ vào quy định tại các Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông T.

[2] Xét yêu cầu ly hôn của bà Đ, thấy rằng: Bà Đ và ông T xác lập quan hệ vợ chồng vào năm 1986, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Lương Hòa, huyện Bến Lức vào ngày 17/9/2007 nên hôn nhân của bà Đ và ông T là hôn nhân hợp pháp. Theo bà Đ nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vả, ông T hay nhậu nhẹt, cờ bạc, có quan hệ với người phụ nữ khác, bà có khuyên nhủ nhưng ông T không sửa đổi. Nay cảm thấy cuộc sống chung không thể tiếp tục nên bà yêu cầu ly hôn. Xét thấy yêu cầu xin ly hôn của bà Đ là có cơ sở chấp nhận vì trong quá trình chung sống bà Đ và ông T đã xảy ra mâu thuẫn, hiện tại hai người không còn quan tâm, chăm sóc nhau. Về phía ông T, từ khi bà Đ nộp đơn khởi kiện đến nay mặc dù đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, biết rõ yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của bà Đ nhưng ông T cũng không có ý kiến gì, liên tiếp vắng mặt trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án cho thấy ông T không có ý định hàn gắn tình cảm vợ chồng và gìn giữ cuộc hôn nhân này. Căn cứ vào nguyên nhân mâu thuẫn mà bà Đ đã trình bày chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa bà Đ và ông T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Đ là phù hợp.

[3] Về con chung: bà Đ trình bày có 03 con chung tên Phạm Thị T, sinh năm: 1987, Phạm Văn T, sinh năm: 1990, Phạm Thị Kim N, sinh năm: 1997, hiện nay đã trưởng thành nên không xem xét.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: bà Đ trình bày không có tài sản chung, không có nợ chung nên không xem xét.

[5] Về án phí: bà Ngô Thị Đ phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị Đ về việc "Ly hôn" với ông Phạm Văn T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Ngô Thị Đ được ly hôn với ông Phạm Văn T.

2. Về án phí: Buộc bà Ngô Thị Đ phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0007420 ngày 15/01/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bến Lức.

Án xử sơ thẩm công khai có mặt nguyên đơn, báo cho nguyên đơn biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2019/HNGĐ-ST ngày 06/05/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:19/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Lức - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về