Bản án 19/2017/HSST ngày 15/06/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH KON TUM

BẢN ÁN 19/2017/HSST NGÀY 15/06/2017 VỀ TRỘM CẮP TÀI SẢN

Sáng ngày 15 tháng 6 năm 2017, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện H, tỉnh Kon Tum mở phiên toà công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 21/2017/HSST ngày 20 tháng 4 năm 2017, đối với bị cáo:

Cao Tấn H, tên gọi khác: Bi Ruồi; Sinh ngày 06 tháng 5 năm 1988. Tại tỉnh Thanh Hóa; Nơi ĐKHKTT và nơi ở hiện nay: Tổ dân phố 8, thị trấn A, huyện P, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn 8/12; Con ông Cao Tấn H, sinh năm 1961 (Đã chết) và bà Trịnh Thị Đ, sinh năm 1965; Bị cáo chưa có vợ, chưa có con; Tiền sự: Không; Tiền án: Ngày 24/7/2014, bị Tòa án nhân quận B, TP. Hồ Chí Minh xử phạt 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản đến ngày 13/9/2014, chấp hành xong hình phạt trở về địa phương sinh sống. Bị bắt tạm giam từ ngày 06/01/2017; đến nay đưa ra xét xử, có mặt tại phiên tòa.

- Những người bị hại:

+ Anh Hà Văn K, sinh năm 1970. Địa chỉ: 53 Nguyễn Văn H, thành phố T, tỉnh Kon Tum. Vắng mặt tại phiên tòa tòa (có đơn xin xét xử vắng mặt).

+ Chị Lê Nhật H, sinh năm 1991. Địa chỉ: Tổ dân phố 1, thị trấn Đ, huyện H, Tỉnh Kon Tum. Có mặt tại phiên tòa.

- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Nguyễn Thanh T, sinh năm 1981. Địa chỉ: 279 Nguyễn Tất T, thành phố K, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt tại phiên tòa (có đơn xin xét xử vắng mặt).

+ Anh Trần Ngọc T, sinh năm 1984. Địa chỉ: 329 Trần Phú, thành phố T, tỉnh Kon Tum. Vắng mặt tại phiên tòa tòa (có đơn xin xét xử vắng mặt).

+ Bà Trịnh Thị Đ, sinh năm 1965. Địa chỉ: Tổ dân phố 8, thị trấn A, huyện P, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt tại phiên tòa.

NHẬN THẤY

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Sáng ngày 15/12/2016, Cao Tấn H (sinh năm 1988; Trú tại tổ dân phố 8, thị trấn A, huyện P, tỉnh Đắk Lắk) đón xe buýt từ thành phố K, tỉnh Gia Lai lên huyện H, tỉnh Kon Tum để tìm hiểu tình hình và địa điểm buôn bán hàng rong (bán quần áo, giày dép). Khoảng 09 giờ 00 phút thì H đến địa bàn thị trấn Đ, huyện H, tỉnh Kon Tum. Thấy đói bụng nên lấy tiền ra để mua bánh mì ăn, nhưng kiểm tra thấy chỉ còn 45.000 đồng, sợ không đủ tiền để quay về nên đã nảy sinh ý định sẽ dùng số tiền này mua một cái tua vit sẵn, nếu thấy nơi nào sơ hở thì sẽ trộm cắp tài sản. Nghĩ vậy, nên H đã ghé vào một quán gần chợ mua 01 tua vit dài khoảng 20cm, cán bằng nhựa màu trắng và cất giấu ở trong người. Sau đó H đi bộ  ngược lại đường về hướng thành phố T và ghé vào một quán InTerNet ở gần trung tâm huyện H để chơi game, chờ trời tối sẽ đi tìm nơi để trộm cắp tài sản. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, sau khi thanh toán tiền, H đi ra về phía khu vực Huyện ủy H (Tổ dân phố 1 thị trấn Đ, huyện H), thấy cửa phụ (của hông - lối đi vào bên trong trụ sở) của Huyện ủy mở, quan sát không có ai nên H trèo qua tường rào (hướng đông), đi vào bên trong một dãy nhà làm việc thấy ở phòng đầu tiên cửa mở và bật điện nhưng H không vào mà đi qua phòng thứ hai liền kề (là phòng làm việc của anh Hà Văn K - Phó Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Huyện ủy) dùng tua vit đã mua mở các ốc vít trên ổ khóa rồi mở cửa đi vào, thấy một máy tính xách tay hiệu SONY VAIO trên bàn làm việc; Ở góc phòng có một chiếc tủ gỗ, không khóa H mở ra, thấy có một giỏ xách màu đen (loại túi đựng máy vi tính) nên lấy ra rồi lấy máy vi tính SONY VAIO trên bàn cùng chuột và dây sạc máy bỏ vào túi rồi đi ra ngoài. Đến phòng thứ ba (phòng làm việc của chị Lê Nhật H- Ban Tuyên giáo Huyện ủy), với cách thức tương tự, H mở cửa đi vào, thấy có túi xách đựng máy vi tính để trên ghế nên mở ra thì thấy máy tính xách tay hiệu ASUS bên trong nên lấy máy ra, bỏ chung vào cùng với máy SONY VAIO đã lấy trước đó. Rồi nhìn sang bàn bên cạnh của chị Nguyễn Thị H thấy có một điện thoại di động SAMSUNG cùng dây sạc nên cầm lên mở nhưng không thấy sáng, nghĩ là hết pin nên cầm điện thoại, dây sạc và túi xách đựng hai máy vi tính quay lại phòng đầu tiên, để túi xách lên ghế để cắm sạc điện thoại, thấy điện thoại vẫn không sáng nên để lại đó và đi sang phòng thứ 4 (bên cạnh phòng của chị H), mở vặn được 01 con ốc thì không mở nữa mà quay lại phòng đầu tiên lấy túi xách đựng máy vi tính đi ra ngoài theo đường lúc đầu đi vào và đi ra hướng đường Quốc lộ 14 về hướng chợ, qua được khoảng 4-5 nhà dân (khoảng 500m) thì vứt chiếc tua vít ở đường và tiếp tục đi qua khu vực tượng đài (Tổ dân phố 7, thị trấn Đ, huyện H), ngồi ở ghế đá trước nhà dân nghỉ và mở máy tính lên xem, xóa bớt dữ liệu trong máy. Khi trời sáng (khoảng 05 giờ 45 phút), H tiếp tục đi đến cây xăng gần chợ Đ thuê taxi của anh Hoàng Ngọc Th (hãng taxi Tiên Sa) chở xuống thành phố T để tìm nơi tiêu thụ tài sản. H vào một tiệm cầm đồ hỏi nhưng họ không đồng ý nên tiếp tục yêu cầu taxi chở đi tìm chỗ bán. Khi đến tiệm Toàn Tín của anh Trần Ngọc T (tại 329, đường Trần Phú, phường L, thành phố T, tỉnh Kon Tum) để bán máy vi tính SONY VAIO. Anh T có hỏi máy của ai? bán bao nhiêu thì H trả lời: Máy của tôi, bán 4.000.000 đồng. Anh T kiểm tra máy và trả 3.800.000 đồng, H đồng ý. Sau đó, H cùng anh Th đi ăn sáng và anh Thiện chở H ra bến xe buýt để H đi về thành phố K, tỉnh Gia Lai; H trả cho anh Th số tiền 630.000đ (sáu trăm ba mươi ngàn đồng). Khoảng 10 giờ 30 ngày 16/12/2016, H xuống xe buýt, vào tiệm Tân Thế Giới của anh Nguyễn Thanh T (thành phố K, tỉnh Gia Lai) bán chiếc máy tính hiệu ASUS với giá 2.500.000đ (hai triu năm trăm ngàn đồng). Sau đó, H đón xe khách đi về tỉnh Đắk Lắk.

Theo kết luận định giá tài sản số 39/KL-ĐGTS ngày 16/12/2016 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện H xác định:

+ Một máy tính xách tay hiệu SONY VAIO, màu sơn đen có giá trị là 13.200.000 (Mười ba triệu hai trăm ngàn đồng)

+ Một máy tính xách tay hiệu ASUS, màu đen có giá trị là 3.340.000 (Ba triệu ba trăm bốn mươi ngàn đồng).

Tổng giá trị tài sản bị thiệt hại: 16.540.000 đồng (Mười sáu triệu năm trăm bốn mươi ngàn đồng).

Về vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã xác định chiếc máy tính xách tay hiệu SONY VAIO, màu sơn đen là của anh Hà Văn K nên đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho anh K tiếp tục quản lý, sử dụng cùng một chuột máy vi tính Logitech và 01 (một) sạc pin laptop là đúng quy định.

Đối với chiếc máy vi tính xách tay hiệu ASUS, màu đen bạc của chị Lê Nhật H. Sau khi mua của bị cáo H, anh Nguyễn Thanh T đã bán lại cho khách hàng (chưa xác định được tên tuổi, địa chỉ) với giá 2.900.000 đồng. Cơ quan CSĐT Công an huyện H đã xác minh nhưng chưa có kết quả.

Về trách nhiệm dân sự: Ngày 18/01/2017, bà Trịnh Thị Đ là mẹ đẻ của Cao Tấn H đã thay mặt bị cáo thỏa thuận việc bồi thường thiệt hại cho người bị hại là chị Lê Nhật H số tiền là 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng), bồi thường cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Trần Ngọc T số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng). Về phần anh Hà Văn K đã nhận lại được tài sản bị mất. Hiện tại chị H, anh K và anh T không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Tại bản cáo trạng số 17/CT-VKS ngày 19 tháng 4 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện H đã truy tố bị cáo Cao Tấn H về tội “ Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Viện kiểm sát nhân dân huyện H vẫn giữ nguyên Quyết định truy tố bị cáo Cao Tấn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự; Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138; Các điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo H từ 09 (Chín) đến 12 (Mười hai) tháng tù.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Trên cơ sở lời khai nhận của bị cáo, lời khai của những người bị hại và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã xác định: Vào khoảng 22 giờ 00 phút ngày 15/12/2016, khi đi ngang qua khu vực Huyện ủy H, lợi dụng đêm khuya vắng vẻ, không có người qua lại, bị cáo đã trèo qua tường rào vào dãy nhà làm việc của Huyện ủy H lấy trộm một chiếc máy vi tính xách tay hiệu SONY VAIO của anh Hà Văn K và một chiếc máy vi tính xách tay hiệu ASUS của chị Lê Nhật H. Sáng ngày 16/12/2016, H thuê xe taxi của anh Hoàng Ngọc Th chở xuống thành phố T bán chiếc máy vi tính SONY VAIO cho tiệm Toàn Tín của anh Trần Ngọc T được 3.800.000 đồng. Trưa cùng ngày, tại thành phố K, tỉnh Gia Lai bị cáo bán chiếc máy tính hiệu ASUS cho tiệm Tân Thế Giới của anh Nguyễn Thanh T được 2.500.000 đồng. Số tiền bán máy vi tính do trộm cắp được, bị cáo đã trả tiền thuê xe taxi và tiêu xài cá nhân hết.

Xét thấy lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của những người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Tài sản bị cáo trộm cắp theo Kết luận định giá tài sản số  39/KL- ĐGTS ngày 16/12/2016 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện H xác định tổng giá trị tài sản bị thiệt hại là 16.540.000 đồng (Mười sáu triệu năm trăm bốn mươi ngàn đồng). Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Cao Tấn H phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Hành vi trên đây của bị cáo Cao Tấn H là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của công dân, đến khách thể quan trọng được pháp luật công nhận và bảo vệ, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an xã hội tại địa bàn huyện H. Vì vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi  đã gây ra. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm minh để có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, thì ngày 24/7/2014 bị Tòa án nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 13/9/2014 chấp hành xong hình phạt, nhưng chưa chấp hành xong khoản tiền án phí hình sự sơ thẩm của bản án trên, nên chưa được xóa án tích. Đến nay, tiếp tục phạm tội nên bị coi là “Tái phạm” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.

Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thì trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, bị cáo đã “thành khẩn khai báo” về hành vi phạm tội của mình. Sau khi tội phạm bị phát hiện, bị cáo đã tác động gia đình tích cực “bồi thường, khắc phục hậu quả”, mặc dù điều kiện hoàn cảnh gia đình bị cáo có khó khăn, là hộ nghèo. Mặt khác, những người bị hại đều xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, đó là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Xét về nhân thân của bị cáo: Trước khi phạm tội, bị cáo đã bị xét xử về tội “Trộm cắp tài sản”, nhưng lại tiếp tục phạm tội, thể hiện rõ bản thân chưa ăn năn hối cải. Tại thời điểm phạm tội, bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Sau khi cân nhắc tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, để bị cáo có thời gian cải tạo, lao động và học tập trở thành người công dân có ích cho xã hội, biết chấp hành và tuân theo pháp luật.

Ngoài ra, trong vụ án này còn có anh Trần Ngọc T và anh Nguyễn Thanh T là người đã mua máy tính của bị cáo, nhưng khi mua bán anh T và anh T không biết hai chiếc máy tính đó do H trộm cắp mà có. Mặt khác, sau khi mua chiếc máy tính hiệu SONY VAIO, anh T thấy nghi ngờ về chiếc máy tính đó nên đã trình báo và giao nộp chiếc máy tính cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện H. Anh Tân, sau khi mua chiếc máy tính hiệu ASUS, anh T đã sửa chữa một số chi tiết và bán lại cho một người không rõ tên tuổi, địa chỉ nên không thu hồi lại được. Vì vậy, Cơ quan điều tra không xử lý trách nhiệm hình sự đối với anh T, anh Tân là có cơ sở, nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

Về vật chứng và trách nhiệm dân sự: Một chiếc máy tính xách tay hiệu SONY VAIO, màu sơn đen, một chuột máy vi tính Logitech và một sạc pin laptop. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chủ sở hữu là anh Hà Văn K là hoàn toàn có căn cứ pháp luật. Anh K không có yêu cầu bồi thường gì thêm, nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

Đối với chiếc máy tính hiệu ASUS của chị Lê Nhật H, sau khi trộm cắp bị cáo đã bán cho anh Nguyễn Thanh T, anh T bán lại cho một người không rõ tên tuổi, địa chỉ, nên không thu hồi được. Gia đình bị cáo đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cho người bị hại chị Lê Nhật H số tiền 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng). Chị H không có yêu cầu bồi thường gì thêm, nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

Anh Trần Ngọc T đã nhận số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng), theo thỏa thuận bồi thường giữa anh T và bà Trịnh Thị Đ (là mẹ của bị cáo H) để khắc phục hậu quả là hoàn toàn tự nguyện. Đối với anh Nguyễn Thanh T, sau khi mua chiếc máy tính hiệu ASUS của bị cáo là 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm ngàn đồng), anh T đã sửa chữa một số chi tiết và bán lại cho một người không rõ tên tuổi, địa chỉ với giá 2.900.000 đồng (Hai triệu chín trăm ngàn đồng). Đến nay, anh T và anh T không có yêu cầu bồi thường gì thêm, nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng chẵn). Tuy nhiên, bị cáo là gia đình hộ nghèo, nên được miễn toàn bộ tiền án phí .

Bởi các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo  Cao Tấn H (Tên gọi khác: Bi Ruồi), phạm tội “Trộm cắp tài sn ”.

Áp dụng khoản 1 Điều 138; Điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.

Xử  phạt: Bị cáo Cao Tấn H (Tên gọi khác: Bi Ruồi) 10 (Mười) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam (ngày 06/01/2017).

Về án phí sơ thẩm: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Cao Tấn H được miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Áp dụng Điều 231; Điều 234 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án (15 tháng 6 năm 2017) lên Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Người bị hại, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà thì thời hạn kháng cáo là 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2017/HSST ngày 15/06/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:19/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ngọc Hồi - Kon Tum
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/06/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về