Bản án 19/2017/DS-ST ngày 12/09/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 19/2017/DS-ST NGÀY 12/09/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN 

Ngày 12 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 21/2017/TLST-DS ngày 04 tháng 5 năm 2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2017/QĐXX-ST ngày 18 tháng 8 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Lê Văn S, sinh năm 1958 và bà Trần Thị M, sinh năm 1959. Địa chỉ: Tiểu khu A, xã M, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Ông S có mặt, bà M vắng mặt có ủy quyền cho ông S tham gia phiên tòa.

2.  Bị đơn: Anh Lê M D, sinh năm 1974 và chị Nguyễn Thị P, sinh năm 1978. Địa chỉ: Bản H, xã M, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Anh D có mặt, chị P vắng mặt có ủy quyền cho anh D tham gia phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện ngày 17/4/2017 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn ông Lê Văn S và bà Trần Thị M trình bày như sau:

Do có mối quan hệ quen biết với nhau nên vợ chồng ông Lê Văn S và bà Trần Thị M cho anh Lê M D và chị Nguyễn Thị P vay tổng số tiền là 200.000.000VNĐ. Cụ thể: Ngày 05/7/2013, vay số tiền là 70.000.000VNĐ cộng thêm 20.000.000VNĐ, không thỏa thuận lãi xuất. Ngày 04/9/2013, vay thêm110.000.000VNĐ, thỏa thuận vay trong thời hạn 05 tháng, lãi xuất là 2%/tháng.

Ngày 05/12/2013, anh D đã thanh toán 70.000.000VNĐ và có trả nhiều lần là 30.000.000 VNĐ, tổng cộng là 100.000.000VNĐ. Số tiền gốc còn lại là 100.000.000 VNĐ, hai bên thỏa thuận lãi xuất là 3%/tháng. Anh D đã thanh toán tiền lãi hàng tháng nhưng đến năm 2016, anh D không trả cả gốc và lãi từ đó đến nay. Vì vậy, ông S làm đơn khởi kiện tại Tòa án, đề nghị anh D thanh toán 100.000.000 VNĐ tiền gốc và 37.000.000 VNĐ tiền lãi, tổng cộng là 137.000.000 VNĐ.

Ông S cho rằng anh D vay trong thời kỳ hôn nhân của anh D và chị P, vay tiền để làm ăn phục vụ cho cuộc sống gia đình, chị P có biết việc vay mượn và thực hiện việc thanh toán tiền lãi hàng tháng cho vợ chồng ông. Vì vậy, anh D và chị P phải cùng có nghĩa vụ thanh toán số tiền còn nợ.

Trong quá trình hòa giải và phiên tòa sơ thẩm, các bên đã thỏa thuận và thống nhất tổng số tiền cả gốc và lãi anh D còn nợ và phải có trách nhiệm thanh toán là 61.000.000VNĐ. Vì vậy, ông S và bà M yêu cầu anh D và chị P phải có trách nhiệm thanh toán tổng số tiền là 61.000.000VNĐ.

Theo các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thm, bị đơn ông Lê M D và bà Trần Thị P trình bày:

Anh D xác nhận có vay tiền của ông S và bà M tổng số tiền là 200.000.000VNĐ vào thời gian như ông S trình này. Mục đích vay tiền là để kinh doanh, phục vụ cuộc sống gia đình nhưng chị P (vợ anh) không liên quan đến khoản nay này. Trong quá trình giải quyết vụ án, anh D đã thống nhất số tiền còn nợ ông D theo các hợp đồng vay đã ký là 61.000.000VNĐ và đề nghị được thanh toán dần do điều kiện kinh tế khó khăn.

Chị Nguyễn Thị P cho rằng ông S và anh D có mỗi quan hệ làm ăn, thường xuyên trao đổi vay mượn tiền của nhau. Chị không liên quan đến việc làm ăn của chồng nên việc anh D vay tiền ông S, bà M chị không biết vay bao nhiêu, vì mục đích gì. Giấy vay tiền không có chữ ký của chị, còn việc trả tiền lãi là do anh D bảo mang tiền đưa cho bà M (vợ ông S) chứ không biết đó là tiền gì. Vì vậy, chị không có trách nhiệm thanh toán số tiền nợ cùng anh D.

Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn và bị đơn đã thỏa thuận thống nhất tổng số tiền cả gốc và lãi còn nợ là 61.000.000VNĐ. Tuy nhiên, hai bên không thỏa thuận được phương thức thanh toán; ông D xin trả dần số tiền 61.000.000VNĐ, bà P không đồng ý cùng thanh toán tiền vay với ông D nhưng do nguyên đơn không đồng ý, yêu cầu ông D và bà P phải thanh toán số tiền số tiền một lần. Do đó, Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo luật định.

Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn vẫn giữa nguyên yêu cầu anh D và chị P thanh toán số tiền 61.000.000VNĐ một lần, không yêu cầu tính lãi từ ngày thỏa thuận tại buổi hòa giải đến thời điểm xét xử; bị đơn anh D và chị P đề nghị được trả dần số tiền 61.000.000VNĐ do không có khả năng thanh toán một lần.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Đồng thời đề nghị HĐXX căn cứ Điều 463, Điều 466 và Điều 470 của Bộ luật Dân sự năm 2015, chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc anh D và chị P phải thanh toán tổng cộng số tiền cả gốc và lãi là 61.000.000VNĐ theo thỏa thuận của hai bên tại phiên hòa giải.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Việm kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về tố tụng: Ông Lê Văn S và bà Trần Thị M khởi kiện đề nghị Tòa án buộc anh Lê M D và chị Nguyễn Thị P thanh toán số tiền còn nợ đã vay trên cơ sở giấy vay tiền hai bên đã ký kết. Căn cứ khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS 2015 Tòa án thụ lý vụ án và xác định quan hệ là tranh chấp hợp đồng vay tài sản, thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.

Ông S và bà M đề nghị đưa chị Nguyễn Thị P tham gia tố tụng với tư cách là đồng bị đơn là có căn cứ chấp nhận. Bởi lẽ, chị P là vợ hợp pháp của anh D, đã thực hiện nghĩa vụ thanh toán lãi hàng tháng tháng cho ông S và bà M; đồng thời, mục đích tiền vay để kinh doanh trang trải cho cuộc sống gia đình.

Về luật áp dụng: Giao dịch dân sự được ký kết trước khi Bộ luật dân sự 2015 có hiệu lực và đang được thực hiện, có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật này nên áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự 2015 để giải quyết.

[2] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị đơn anh Lê M D xác nhận có vay và đã nhận đủ tổng số tiền 200.000.000VNĐ của ông Lê Văn S và bà Trần Thị M theo giấy vay tiền ngày 05/7/2013 và ngày 04/9/2013. Như vậy, hợp đồng vay tài sản giữa ông S bà M và anh D là có thật và hợp pháp, cần được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Trong quá trình giải quyết vụ án, ông S và anh D đã thỏa thuận thống nhất số tiền cả gốc và lãi còn nợ là 61.000.000VNĐ, không tính lãi từ thời gian thỏa thuận đến phiên tòa sơ thẩm. Hội đồng xét xử nhận thấy, thỏa thuận của ông S, bà M và anh D về việc xác định số tiền gốc còn nợ và lãi trên là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội nên có căn cứ chấp nhận. Anh D đề nghị trả dần số tiền còn nợ nhưng không xác định thời hạn thanh toán là không có căn cứ. Căn cứ vào khoản 1 Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015, cần chấp nhận yêu cầu thanh toán số tiền 61.000.000VNĐ cả gốc và lãi của nguyên đơn.

[4] Về trách nhiệm trả nợ: Chị Nguyễn Thị P là vợ hợp pháp của anh D,tiền vay trong thời gian anh chị là vợ chồng hợp pháp, chị là người trực tiếp thực hiện nghĩa vụ tiền lãi hàng tháng cho ông S, bà M. Mục đích tiền vay  để kinh doanh phục vụ cuộc sống gia đình. Tại phiên tòa, anh D là người đại diện theo ủy quyền của chị P thừa nhận tiền vay sử dụng vì mục đích chung. Vì vậy, nguyên đơn yêu cầu chị P và anh D phải cùng có trách nhiệm thanh toán số tiền còn nợ trên là có căn cứ chấp nhận.

[5] Từ nhận định trên, Hội đồng xét xử nhận thấy: cần buộc anh Lê M D và chị Nguyễn Thị P phải trả cho ông Lê Văn S và bà Trần Thị M số tiền cả gốc và lãi theo thỏa thuận là 61.000.000VNĐ.

[6] Về án phí:  Bị đơn anh Lê M D và chị Nguyễn Thị P phải chịu án phí sơ thẩm đối với các vụ án dân sự có giá ngạch tương ứng với phần yêu cầu của nguyên đơn đối với bị đơn được Tòa án chấp nhận là 61.000.000VNĐ  x 5% = 3.375.000VNĐ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 463, Điều 466 và Điều 470 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn S và bà Trần Thị M. Buộc anh Lê M D và chị Nguyễn Thị P phải thanh toán toàn bộ số tiền nợ cả gốc và lãi theo thỏa thuận của hai bên là 61.000.000VNĐ (Sáu mươi một triệu đồng).

Kể từ ngày ông S và bà M có đơn yêu cầu thi hành án nếu anh D chị P không tự nguyện trả số tiền trên thì hàng tháng anh D chị P còn phải chịu một khoản tiền lãi theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

Về án phí:

Anh Lê M D và chị Nguyễn Thị P phải chịu án phí sơ thẩm đối với các vụ án dân sự có giá ngạch tương ứng với phần yêu cầu của nguyên đơn đối với bị đơn được Tòa án chấp nhận là 3.050.000VNĐ (Ba triệu không trăm năm mươi năm nghìn đồng).

Ông Lê Văn S được nhận lại cho số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 3.425.000VNĐ (Ba triệu bốn trăm hai mươi năm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2013/03592 ngày 04/5/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2017/DS-ST ngày 12/09/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:19/2017/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Sơn - Sơn La
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 12/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về