Bản án 191/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 191/2019/HS-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong các ngày 26 và 27 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Tết xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 175/2019/TLST-HS ngày 31 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 219/2019/QĐXXST-HS ngày 06/11/2019 và Thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa hình sự sơ thẩm số 226/TB-TA ngày 11/11/2019 đối với các bị cáo:

1. ĐN TH (tên gọi khác: Chó lớn), sinh năm: 1989 tại Bình Thuận; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn 02, xã H, huyện H, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Q tịch: Việt Nam; con ông ĐVX (đã chết) và bà LTG, sinh năm 1969; vợ tên ĐTV, sinh năm 1989 và 01 con chung sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo đang tại ngoại tại địa phương và bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt tại phiên tòa.

2. ĐN TH (tên gọi khác: Chó nhỏ), sinh năm: 1991 tại Bình Thuận; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn 02, xã H, huyện H, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Q tịch: Việt Nam; con ông ĐVX (đã chết) và bà LTG, sinh năm 1969; vợ tên NTKH, sinh năm 1993 và 01 con chung sinh năm 2012; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 27/6/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận xử phạt 12 tháng tù về tội “Đánh bạc” theo bản án số 47/2014/HSST.

Bị cáo bị bắt và tạm giam ngày: 27/9/2019; Bị cáo tạm giam có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo ĐN TH:

Ông Lê Văn Khánh - Luật sư của Văn phòng luật sư Ngọc Ký thuộc Đoàn luật sư tỉnh Bình Thuận (có mặt).

* Người bị hại:

Ông NMQ, sinh năm 1990 Hộ khẩu thường trú: Thôn Xi, xã P, Tp P, tỉnh Bình Thuận (có mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà PTND, sinh năm 1980 (vắng mặt) 2. Ông TDT, sinh năm 1982 (vắng mặt) Cùng địa chỉ: Khu phố 03, phường P, Tp P, tỉnh Bình Thuận.

* Người làm chứng:

Ông NTT, sinh năm 1977 (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

NMQ và ĐN TH cùng làm việc tại quán ĐK trên đường Tôn Đức Thắng, Tp Phan Tết. Qúa trình làm việc giữa hai bên có xảy ra mâu thuẫn dẫn đến cãi vã nhưng chưa đánh nhau. Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 11/3/2018 sau khi uống rượu bia về, Q đi đến quán cà phê TQ tại khu phố 03, phường P, Tp P do anh TDT làm chủ để uống cà phê, tại đây Q dùng điện thoại gọi cho TH và nói: “Mày đang ở đâu”, TH nói lại: “Tao đang làm”, Q nói tiếp: “Giờ này làm gì nữa, tao đánh mày bây giờ”, TH nói lại: “Tao chưa chém mày, ở đó mà đòi đánh tao”, rồi hỏi Q: “Mày đang ở đâu”, Q trả lời: “Tao đang ngồi ở ngã tư Phú Hội uống cà phê một mình, mày lên đây”, TH nói tiếp: “Mày dựa hơi ai trên đó mà kêu tao lên” rồi cúp máy. Ít phút sau, Q gọi lại cho TH nói: “Mày có lên không, nếu mày không lên, tao xuống tao chém mày”, TH nói lại: “Mày ở đó đi, tao lên tới chỗ mày khỏi xuống”. Nói xong TH gọi điện thoại cho em trai là ĐN TH, nói: “Thằng Q đòi đánh anh, không cho anh làm ở Phan Tết nữa” thì T có hỏi lại: “Nó đang ở đâu”, TH trả lời: “Nó đang ở quán cà phê TQ trên đường Trường Chinh”. Sau đó TH điều khiển xe mô tô về phòng trọ của mình lấy 01 cây kiếm dài khoảng 60 cm, lưỡi trắng bằng kim loại, ở trên phần sóng của lưỡi có nhiều lỗ tròn, cầm trên tay rồi đi đến phòng trọ của T tại số 2 N, Tp P. Tại phòng trọ của T lúc này có Tuấn và Minh (đều không rõ nhân thân, là bạn của T) đang ngồi chơi. Thấy TH cầm kiếm đến thì T đi vào phòng trọ của mình lấy trên nóc tủ gỗ 01 cây kiếm dài khoảng 80 cm, lưỡi màu trắng bằng kim loại, cầm trên tay rồi cùng TH, Tuấn, Minh sử dụng 02 xe mô tô đi đến quán cà phê TQ nơi Q đang chờ. Tới nơi, T hỏi TH: “Thằng nào, thằng nào”, TH chỉ tay về phía Q rồi nói: “Nó đó”. Nói xong TH cầm kiếm đi trước vào quán, còn T cầm kiếm đi theo sau, Tuấn và Minh đứng ở ngoài xe chờ. Thấy TH và T cầm kiếm đi vào nên Q bỏ chạy vào phía bên trong quán, do va vào cây trụ của quán nên Q ngã xuống đất. Lúc này TH cầm kiếm trên tay đi tới chém từ trên xuống dưới vào người Q, Q cầm cái bàn nhựa trong quán lên đỡ thì bị TH chém trúng vào tay, Q ôm tay ngồi gục xuống thì bị T đi đến chém 01 nhát trúng vào lưng Q. Sau đó TH và T cầm ghế nhựa đánh vào đầu và người của Q, đánh xong TH và T đi ra xe để Tuấn và Minh chở về phòng trọ của T. Q thì được mọi người đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Thuận.

Ngày 16/3/2018 NMQ có đơn xin giám định thương tích và yêu cầu xử lý hình sự đối với ĐN TH và ĐN TH.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 173/2018/TgT ngày 02/4/2018 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Bình Thuận kết luận thương tích của NMQ như sau:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Vết sẹo phần mềm vùng thái dương trán trái, sẹo liền tốt, kích thước: 1,3 x 1,5cm. Vết sẹo do vật sắc gây ra, chiều hướng tác động từ trái sang phải. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là 01%;

- Vết sẹo phần mềm vùng lưng trái, sẹo liền tốt, kích thước: 16 x 0,2cm. Vết sẹo do vật sắc gây ra, chiều hướng tác động từ sau ra trước. Tỷ lệ tổn thương cơ thể tổn thương cơ thể là 07%;

- Vết thương đầu dưới cẳng – cổ tay phải, gãy hở đầu dưới xương quay, phạm khớp, đứt gân duỗi các ngón I, II, III, IV, V; đứt gân duỗi cổ tay quay, đứt gân dạng ngón I đã được phẫu thuật điều trị. Hiện vết thương liền sẹo, kích thước:

10 x 0,1cm, hạn chế cử động cổ tay phải ở các động tác: Gấp, duỗi, xoay cổ tay;

hn chế vận động các ngón bàn tay phải: Duỗi, gấp, dạng, khép; hạn chế đối với ngón I và các ngón; tê ngón V bàn tay phải. Vết sẹo do vật sắc gây ra, chiều hướng tác động phụ thuộc vào tư thế tay phải của nạn nhân với vật gây thương. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là 22%;

- Vết sẹo phần mêm vùng gối trái, sẹo liền tốt, kích thước: 2,5 x 0,5cm. Vết sẹo do vật sắc gây ra, chiều hướng tác động phụ thuộc vào tư thế chân trái của nạn nhân với vật gây thương. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là 01%;

- Hiện hạn chế cử động cổ tay phải và các ngón bàn tay phải.

2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 29%.

3. Kết luận khác: Không.

Đi với 02 cây kiếm bằng kim loại mà TH và T dùng để gây thương tích cho NMQ, TH và T mang 02 cây kiếm trên về phòng trọ của T ở số 2 N thuộc khu phố 04, phường X, Tp P cất giấu. Sau đó T chuyển phòng trọ nên 02 cây kiếm trên bị thất lạc. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Tp Phan Tết đã tổ chức truy tìm vật chứng nhưng không thu hồi được.

Về dân sự: Sau khi sự việc xảy ra NMQ yêu cầu TH và T bồi thường với tổng số tiền là 40.000.000 đồng, gồm tiền điều trị thương tích và tiền lương ngày công lao đông. Hiện TH và T đã bồi thường đủ số tiền trên cho Q. Q không yêu cầu bồi thường gì thêm. Gia đình Q làm đơn bãi nại đối với ĐN TH và ĐN TH. Tại phiên tòa NMQ không yêu cầu TH và T bồi thường trách nhiệm về dân sự và đề nghị hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Đi với ông TDT và bà PTND là chủ quán cà phê TQ, không yêu cầu TH và T bồi thường đối với bàn ghế bị hư hỏng mà TH và T đã gây ra khi đánh nhau với Q.

Tại bản Cáo trạng số 171/CT-VKSPT ngày 29/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Tết quyết định, truy tố các bị cáo: ĐN TH và ĐN TH về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo ĐN TH trình bày: Vết thương ở tay phải và ở lưng trái của Q do TH dùng kiếm chém, T không có chém Q. Còn vết thương ở thái dương trái của Q là do quá trình đánh nhau bị mảnh thủy tinh ở quán cà phê gây thương tích, còn đối với vết thương ở đầu gối Q là do khi Q ngã trúng mảnh thủy tinh vỡ khi bị rượt đuổi. Đối với 02 cây kiếm mà TH và T dùng để chém Q là lấy ở phòng trọ của TH và đưa cho T để đi đến gặp Q tại quán cà phê TQ.

Tại phiên tòa ĐN TH trình bày: T thừa nhận có đồng phạm với TH gây ra thương tích cho Q nhưng T không thừa nhận dùng kiếm chém vào lưng của Q. Đối với cây kiếm tự tạo T cầm khi đi cùng TH đến quán cà phê TQ để đánh Q là của T nhặt được và lấy từ phòng trọ của T khi cùng TH đến quán cà phê TQ.

Tại phiên toà hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Tết phát biểu quan điểm xử lý về vụ án như sau:

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: ĐN TH và ĐN TH, phạm tội Cố ý gây thương tích”;

Áp dụng: Điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: ĐN TH từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

Áp dụng: Điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: ĐN TH từ 24 tháng tù đến 30 tháng tù.

Về phần dân sự: Do bị hại và các bị cáo đã thỏa thuận bồi thường xong. Đồng thời người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không yêu cầu bồi thường gì thêm nên đề nghị hội đồng xét xử không xem xét.

Đi với đối tượng tên Tuấn và Minh là những đối tượng chở TH và T đi đánh Q. Do chưa xác định được nhân thân nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Tết tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Bị cáo ĐN TH và ĐN TH không tranh luận gì. Luật sư bào chữa cho bị cáo ĐN TH tranh luận:

Viện kiểm sát căn cứ vào kết luận giám định pháp y về thương tích và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án để làm căn cứ xử lý vụ án thì hoàn toàn thống nhất. Tuy nhiên tại phiên tòa hôm nay người bị hại trình bày chỉ bị chém 02 nhát vào tay và lưng, còn đối với vết thương ở thái dương trái và gối trái do mảnh thủy tinh văng trúng và bị té phải gây thương tích. Trong vụ án này T thực hiện hành vi chỉ ở mức độ nhất định, mặt khác gia đình bị cáo có 03 anh em, trong đó bị cáo TH và T là con trai và là anh em ruột, hiện nay có mẹ già bị bệnh, cha đã chết và đã từng tham gia cách mạng. Mặt nữa mâu thuẫn trong vụ án này là do lỗi của người bị hại, nếu người bị hại không có hành vi say xỉn gọi điện cho TH thì sẽ không dẫn đến hậu quả đáng tiếc xảy ra. Bị cáo T là người bị hại trong vụ án khác bị người ta chém nhầm gây nên 02 thương tích là hơn 90%. Sau khi gây thương tích bị cáo đã bồi thường cho bị hại và người bị hại đã làm đơn bãi nại cho bị cáo. Vì vậy đề nghị hội đồng xét xử xem xét, khoan hồng và giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để T có cơ hội sửa sai, chăm sóc mẹ già và chữa thương tích. Đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát không áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo T, tôi thấy quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn, chỉ vì bị cáo có nhận thức hạn chế nên mới có lời khai mâu thuẫn, nhưng theo tôi lời khai của bị cáo là thành khẩn. Vì vậy tôi đề nghị hội đồng xét xử xem xét áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm mức hình phạt cho bị cáo.

Người bị hại ông NMQ không tranh luận gì.

Các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Tết và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Tết và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, theo hồ sơ đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự và thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra các bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và tại phiên tòa bị cáo, người bị hại đều không thắc mắc, khiếu nại về những hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Li khai nhận của bị cáo ĐN TH, ĐN TH tại phiên tòa sơ thẩm không phù hợp với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra. Tuy nhiên trên cơ sở xem xét toàn diện tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời khai của người biết việc trong quá trình điều tra và các tài liệu chứng cứ khác được thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa, thể hiện: Xuất phát từ mâu thuẫn nhỏ trong quá trình làm việc chung nên vào khoảng 17 giờ ngày 11/3/2018, tại quán cà phê TQ thuộc khu phố 03, phường P, thành phố P; ĐN TH và ĐN TH đã có hành vi rượt đuổi làm Q chạy va trúng vào cột nhà nên bị ngã; TH dùng kiếm tự tạo chém trúng vào tay phải của Q gây thương tích, T dùng kiếm tự tạo chém trúng lưng trái của Q gây thương tích và trong quá trình đánh nhau do bị mản thủy tinh văng trúng và ngã trúng mảnh thủy tinh bị vỡ làm Q bị vết thương tại vùng thái dương trái và gối chân trái, với tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể là 29%.

Tại phiên tòa, ĐN TH thay đổi lời khai cho rằng hai vết thương ở tay phải và lưng trái của Q là do TH chém, còn T không chém vào lưng Q. ĐN TH cho rằng chỉ cầm kiếm đi cùng TH đến nơi đánh nhau, T thừa nhận là đồng phạm với bị cáo TH nhưng T không thừa nhận chém vào lưng Q như cáo trạng của Viện kiểm sát nêu. Lời khai có chém Q vào lưng trái tại cơ quan điều tra là không đúng vì thời điểm đó T chỉ nhận tội thay cho TH. Luật sư bào chữa cho bị cáo T cho rằng các bị cáo có nhận thức hạn chế nên có lời khai mâu thuẫn. Tuy nhiên do T có tiếp nhận ý chí của TH và gây ra thương tích cho Q nên T có vai trò đồng phạm với TH trong vụ án này.

Hi đồng xét xử, xét thấy tại phiên tòa NMQ khẳng định vết thương tay phải, lưng trái là do các bị cáo gây ra, còn vết thương ở gối chân trái là do ngã trúng mảnh thủy tinh vỡ khi bị rượt đuổi, còn vết thương ở thái dương trái là do mảnh thủy tinh văng trúng. Lời khai này phù hợp với lời khai của những người chứng kiến sự việc xảy ra vào ngày 11/3/2018 và phù hợp với lời khai ban đầu của TH và T tại cơ quan điều tra, cũng như bản ảnh, sơ đồ hiện trường được dựng lại theo lời khai của các bên. Vì vậy, lời khai của TH cho rằng các vết thương ở tay phải và ở lưng trái Q là do TH chém và T cho rằng không dùng kiếm chém vào lưng trái của Q là không có căn cứ chấp nhận.

Đi với lời bào chữa của vị luật sư cho rằng các bị cáo chỉ gây ra 02 vết thương ở cổ tay phải và lưng trái của Q, các vết thương còn lại là do Q tự ngã trúng mảnh thủy tinh bị vỡ và bị mảnh thủy tinh văng trúng nên không phải chịu trách nhiệm đối với hai vết thương này. Hội đồng xét xử, xét thấy ngoài vết thương ở tay phải và lưng trái, Q còn bị thương tích ở vùng thái dương trái và gối trái là do TH và T có hành vi rượt đuổi để chém nên Q mới chạy ngã phải mảnh thủy tinh gây thương tích ở gối trái và mảnh thủy tinh văng trúng gây thương tích ở thái dương trái nên các bị cáo phải chịu trách nhiệm đối với các thương tích này của Q. Vì vậy các bị cáo phải chịu trách nhiệm đối với 04 vết thương gây ra cho Q với tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể là 29%.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm phạm đến sức khoẻ của người khác được pháp luật bảo vệ, mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự ở địa phương, các bị cáo là những thanh niên đã trưởng thành, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, các bị cáo nhận thức được được việc dùng kiếm chém vào NMQ là nguy hiểm nhưng vẫn cố ý thực hiện gây thương tích cho người khác. Hành vi của các bị cáo ĐN TH, ĐN TH đã phạm tội “Cố ý gây thương tích” được quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, giữa TH và Q chỉ có mâu thuẫn nhỏ nhặt, bị cáo T không có mâu thuẫn gì với Q nhưng cả hai đã sử dụng kiếm tự tạo chém gây thương tích cho Q. Do các bị cáo phạm tội với tình tiết định khung “Dùng hung khí nguy hiểm” và “Có tính chất côn đồ” quy định tại điểm a, i khoản 1 Điều 134 bộ luật hình sự với tỷ lệ tổn thương cơ thể cho người bị hại NMQ là 29% nên đã phạm vào điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Tết truy tố là có căn cứ.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa thể hiện, gia đình các bị cáo đã bồi thường Tệt hại cho người bị hại và gia đình người bị hại đã có đơn bãi nại cho các bị cáo và tại phiên tòa người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo; các bị cáo có cha là ông ĐVX là bộ đội phục viên; trong vụ án này người bị hại cũng có một phần lỗi do có hành vi gọi điện thoại gây hấn với TH mới dẫn đến sự việc như đã phân tích ở trên, bị cáo T là người bị hại trong vụ án khác có thương tích trên 90% nên cần áp dụng điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự khi lượng hình đối với các bị cáo.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên đề nghị hội đồng xét xử đề không áp dụng và không chấp nhận áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo TH và T theo đề nghị của Luật sư bào chữa. Hội đồng xét xử, xét thấy tại phiên tòa bị cáo TH và bị cáo T không thể hiện sự thành khẩn, trình bày quanh co, mâu thuẫn, khó khăn cho việc xem xét đánh giá tình tiết của vụ án. Vì vậy đề nghị của viện kiểm sát là có cơ sở chấp nhận.

[4] Về nhân thân: Đối với bị cáo ĐN TH chưa có tiền án, tiền sự. Đối với bị cáo ĐN TH đã bị Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc xử phạt 12 tháng tù về tội “Đánh bạc” theo bản án số 47/2014/HSST ngày 27/6/2014.

[5] Xét vai trò các bị cáo trong vụ án: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, trong đó:

Bị cáo ĐN TH là người khởi xướng, rủ rê bị cáo ĐN TH, còn ĐN TH là người giúp sức và cả hai đã có hành vi dùng kiếm chém Q nên xử phạt bị cáo TH mức hình phạt cao hơn bị cáo T là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội do các bị cáo gây ra.

[6] Trên cơ sở cân nhắc tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo thấy rằng cần phải xử lý và áp dụng hình phạt tù tương xứng để trừng trị, giáo dục các bị cáo ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới; đồng thời giáo dục những người khác tôn trọng pháp luật và đấu tranh chống tội phạm.

[7] Đối với đối tượng tên Tuấn và Minh là những đối tượng chở TH và T đi đánh Q. Do chưa xác định được nhân thân nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Tết tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

[8] Về phần bồi thường dân sự: Người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không yêu cầu bồi thường Tệt hại nên hội đồng xét xử không xét.

[9] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: ĐN TH, ĐN TH, phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng: Điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: ĐN TH 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt T hành án.

Áp dụng: Điểm đ Khoản 2 Điều 134; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: ĐN TH 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt ngày 27/9/2019.

Áp dụng: Khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo ĐN TH, ĐN TH mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo bản án sơ thẩm của các bị cáo, người bị hại là 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 27/11/2019); của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

482
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 191/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:191/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về