Bản án 18A/2019/HNGĐ-ST ngày 11/04/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MINH HOÁ, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 18A/2019/HNGĐ-ST NGÀY 11/04/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 11 tháng 4 năm 2019, tại Toà án nhân dân huyện Minh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 03/2019/TLST-HNGĐ ngày 14/01/2019 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 125/2019/QĐST-DS ngày 04/3/2019 của Toà án nhân dân huyện Minh Hoá giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Đinh Thị L

Trú tại: Tiểu khu B, TT Quy Đ, huyện Minh H, tỉnh Quảng Bình - có mặt.

2. Bị đơn: Anh Đinh Xuân L

Trú tại: Tiểu khu B, TT Quy Đ, huyện Minh H, tỉnh Quảng Bình - vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ghi ngày 14/01/2019 và tại bản tự khai ghi ngày 14/01/2019 của nguyên đơn Đinh Thị L trình bày: giữa chị L và anh L đã đăng ký kết hôn ngày 03/11/2008 tại Ủy ban nhân dân thị trấn Quy Đ, huyện Minh H, tỉnh Quảng Bình trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Quá trình chung sống thời gian đầu vợ chồng thương yêu hòa thuận. Sau một thời gian phát sinh mâu thuẫn, sống không hợp nhau, hai chồng vợ đã sống ly thân. Vì vậy chị L làm đơn yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh L.

Con chung của vợ chồng: Chị L và anh L có với nhau 02 con chung là cháu Đinh Gia B, sinh ngày 30/5/2009 và cháu Đinh Gia L, sinh ngày 10/6/2014, nguyện vọng của chị L nếu ly hôn xin được trực tiếp nuôi dưỡng hai cháu và yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 500.000 đồng cho mỗi cháu.

Tài sản chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về vay chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa đã thụ lý vụ kiện theo yêu cầu của Chị Đinh Thị L Về phía bị đơn anh Đinh Xuân L, sau khi thụ lý vụ án Toà án nhân dân huyện Minh Hoá đã triệu tập anh L nhiều lần nhưng anh Lý cố tình không đến Toà án để tham gia các phiên hoà giải. Toà án nhân dân huyện Minh Hoá đã đến tại cơ sở và xác minh thì được biết hiện nay anh L đã đi làm ăn xa nhưng vẫn biết có các giấy triệu tập của Tòa án đến giải quyết ly hôn với chị L nhưng cố tình không hợp tác với Tòa án để giải quyết vụ án. Tòa án đã niêm yết tất cả các giấy triệu tập, quyết định đưa vụ án ra xét xử và thông báo mở lại phiên tòa tại Ủy ban nhân dân thị trấn Quy Đ nơi anh L cư trú nhưng anh L vẫn không đến tòa án để giải quyết vụ án.

Ngày 27/3/2019, Toà án nhân dân huyện Minh Hoá đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm ly hôn đối với chị L và anh L, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng anh L vắng mặt nên đã hoãn phiên toà vì lý do vắng mặt bị đơn. Tại phiên tòa hôm nay anh L vẫn vắng mặt không có lý do.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Chị Đinh Thị L và anh Đinh Xuân L đã đăng ký kết hôn vào ngày 03/11/2008 tại Ủy ban nhân dân thị trấn Quy Đ, huyện Minh H, tỉnh Quảng Bình trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, nên được coi đây là cuộc hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống 2 vợ chồng đã có với nhau 02 con chung. Đáng lẽ ra anh chị đã có một gia đình hạnh phúc, nhưng chỉ vì những bất đồng quan điểm trong cuộc sống vợ chồng mà giữa anh chị đã xảy ra mẫu thuẫn trầm trọng, sống ly thân với nhau.

Về phía bị đơn anh Đinh Xuân L có hộ khẩu thường trú tại Tiểu khu B, TT Quy Đ, huyện Minh H, tỉnh Quảng Bình, nhưng cố tình dấu địa chỉ mặc dù đã được Toà án tống đạt giấy triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt tại Toà án. Ngày 27/ 3/2019, Toà án nhân dân huyện Minh Hoá đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm ly hôn đối với chị L và anh L. Mặc dù đã được Tòa án tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử và triệu tập hợp lệ nhưng anh L vẫn vắng mặt, nên đã hoãn phiên toà vì lý do vắng mặt bị đơn. Tại phiên tòa hôm nay anh L đã được toà án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Toà án tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Xét thấy mâu thuẩn của hai vợ chồng là rất trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, nên xử cho vợ chồng được ly hôn là đúng quy định tại các điều 51, 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[2] Về con chung: Xét thấy nguyện vọng của chị L là hợp lý vì hiện các cháu đang ở vơi chị L, mặt khác hiên nay anh L đang đi làm ăn xã không đủ điều kiện để nuôi các cháu nên xử giao cho chị L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng hai cháu và yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 500.000 đồng cho mỗi cháu là hợp lý.

[3] Tài sản chung : Không có nên miễn xét.

[4] Về vay chung: Không có nên miễn xét.

[5] Về án phí: Chị Đinh Thị L phải chịu 300.000đ ( Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về tranh chấp ly hôn nhưng được trừ vào số tiền đã nộp tạm ứng án phí 300.000đ theo biên lai số: 0004085 ngày 17/12/2018 tại Chi cục thi hành án Dân sự huyện Minh Hoá, tỉnh Quảng Bình chị L đã nộp đủ án phí. Anh Đinh Xuân L phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo đình kỳ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Đinh Thị L được ly hôn với anh Đinh Xuân L.

2. Về con chung: Giao chị Đinh Thị L trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Đinh Gia B, sinh ngày 30/5/2009 và cháu Đinh Gia L, sinh ngày 10/6/2014. Yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 500.000 đồng cho mỗi cháu, việc cấp dưỡng kể từ tháng 04/2019 cho cho đến khi các cháu tròn 18 tuổi.

Hai bên có quyền qua lại, thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở thực hiện quyền này. Khi cần thiết vì quyền lợi của con một trong hai bên có quyền làm đơn yêu cầu Toà án thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về án phí: Chị Đinh Thị L phải chịu 300.000đ ( Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về tranh chấp ly hôn nhưng được trừ vào số tiền đã nộp tạm ứng án phí 300.000đ theo biên lai số: 0004085 ngày 17/12/2018 tại Chi cục thi hành án Dân sự huyện Minh Hoá, tỉnh Quảng Bình chị L đã nộp đủ án phí. Anh Đinh Xuân L phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo đình kỳ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Trường hợp bên phải thi hành án do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán quy định tại Khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự mà không có thỏa thuận lãi suất thì thực theo quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự được xác định mức lãi suất quá hạn quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự để trả cho bên được thi hành án tương ứng với thời gian chậm thi hành.

4. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (11/4/2019), bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án tại trụ sở UBND thị trấn Quy Đ, huyện Minh H, tỉnh Quảng Bình để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18A/2019/HNGĐ-ST ngày 11/04/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:18A/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Minh Hóa - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về