Bản án 189/2019/HS-ST ngày 19/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 189/2019/HS-ST NGÀY 19/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 19 tháng 11 năm 2019 tại Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 189/2019/TLST-HS ngày 22 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 191/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Vương Hoàng V, sinh năm 1997; nơi sinh: Bình Dương; thường trú: Ấp 1, xã Tân Bình, huyện B, tinh B; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hoá: 11/12;

dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vương Văn B và bà Nguyễn Thị L; tiền án: Ngày 23/6/2017, bị Toà án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xử phạt 01 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay. Có mặt 2. Lê Thành P, sinh năm 1994; nơi sinh: Bình Dương; thường trú: Khu phố Bình Phú, phường B, thị xã T, tỉnh B; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn P và bà Nguyễn Thị Thanh H; tiền án: Không, tiền sự: Không; bị bắt ngày 29/4/2019, sau đó chuyển sang tạm giữ, tạm giam cho đến nay. Có mặt 3. Võ Thành Đ, sinh năm 1995; nơi sinh: Tiền Giang; thường trú: 211 đường Trưng Trắc, Phường 1, thành phố M, tỉnh T; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Văn B và bà Đào Thanh X; tiền án: Không, tiền sự:

Không; bị bắt ngày 29/4/2019, sau đó chuyển sang tạm giữ, tạm giam cho đến nay. Có mặt - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Trần Lê Hoàng T, sinh năm 1996; địa chỉ: 419 ấp 1, xã Phước Hòa, huyện P, tỉnh B. Có mặt

2. Ông Bùi Văn T, sinh năm 1968; địa chỉ: 1075/8A Đông Thành, phường Tân Đông Hiệp, thị xã D, tỉnh B. Vắng mặt

- Người làm chứng:Bà Hoàng Thị Hạnh. Vắng mặt, ông Vương Văn Sĩ.  mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

ơng Hoàng V, Lê Thành P và Võ Thành Đ có mối quan hệ quen biết nhau, đều là đối tượng nghiện ma túy. V là bạn trai của Hoàng Thị Hạnh.

Khong 18 giờ ngày 28/4/2019, V điều khiển xe mô tô biển số 61F1- 337.33 đến phòng trọ của Hạnh ở số 569 đường Lê Hồng Phong thuộc phường Phú Hòa, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương để chơi. Khi đến đây, V đưa cho Hạnh 1.700.000 đồng giữ giùm V. Khoảng 22 giờ cùng ngày, khi V đang ở phòng trọ của Hạnh thì V sử dụng điện thoại sim số 0942204999 của V gọi vào số điện thoại 0973933484 của P nhờ P hỏi mua ma túy cho V và hẹn P ra ngã tư Địa Chất thuộc phường Phú Hòa, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương gặp để V đưa tiền cho P. Sau đó, V nói với Hạnh là V về nhà tại xã Tân Bình, huyện Bắc Tân Uyên, nghe vậy Hạnh nói cho Hạnh đi theo để về nhà tại xã Bình Mỹ, huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, V đồng ý và lấy xe chở Hạnh đi. Trên đường đi, khi đến ngã tư Địa Chất thì V gặp P đang điều khiển xe mô tô biển số 61S2-5331 chở Đ ngồi phía sau. P hỏi mượn V 100.000 đồng để đổ xăng, V nói Hạnh lấy cho P mượn thì Hạnh lấy đưa cho P 100.000 đồng, sau đó P kêu V đưa tiền để đi ma túy nhưng V không đưa tiền mà nói sẽ đi cùng P. Lúc này P điều khiển xe mô tô 61S2-5331 chở Đ đi trước, V điều khiển xe 61F1-337.33 chở Hạnh đi phía sau. Khi đi đến khu vực mua bán ve chai gần ngã tư chợ Tân Phước Khánh thuộc khu phố Khánh Lợi, phường Tân Phước Khánh, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương thì P, Đ dừng xe cách xe của V và Hạnh khoảng 2,5m. Lúc này, Đ vẫn ngồi trên xe còn P đi bộ lại vị trí của V dừng xe và kêu V đưa tiền cho P. Nghe vậy V kêu Hạnh đưa cho V 1.600.000 đồng. Sau khi đưa tiền cho V thì Hạnh xuống xe và đi vào lề đường bấm điện thoại chơi game còn V cầm 1.600.000 đồng đưa cho P. Sau khi cầm tiền do V đưa, P tiếp tục đưa số tiền này cho Đ. Cùng lúc này có một thanh niên đến đưa cho Đ 02 bịch nylon hàn kín trong đó có 01 bịch nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng bên ngoài có dán một miếng băng keo màu đen và 01 bịch nylon hàn kín chứa tính thể màu trắng rồi Đ đưa số tiền 1.700.000 đồng cho người thanh niên này rồi người này cầm tiền và bỏ đi. Sau đó Đ đưa cho V 01 bịch nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng bên ngoài có dán một miếng băng keo màu đen, còn 01 bịch nylon chứa tinh thể màu trắng Đ cất giấu vào túi quần jean bên phải phía trước đang mặc để sử dụng cho riêng cá nhân Đ nhưng P và V không biết. Ngay lúc này, lực lượng Công an phường Tân Phước Khánh, thị xã Tân Uyên đang trên đường đi tuần tra nhìn thấy P, Đ, V và Hạnh có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra V giao nộp 01 bịch nylon hàn kín có chứa tinh thể màu trắng bên ngoài có dán miếng băng keo màu đen mà Đ vừa đưa cho V, Đ lấy trong túi quần jean bên phải phía trước của Đ ra giao nộp 01 bịch nylon có chứa tinh thể màu trắng. V, P, Đ khai nhận trong bịch nylon có chứa ma túy nên Tổ tuần tra tiến hành niêm phong vật chứng đồng thời lập biên bản tạm giữ: 02 bịch nylon hàn kín bên trong có chứa tinh thể màu trắng; xe mô tô biển số 61S2-5331; xe mô tô biển số 61F1-337.33; điện thoại di động hiệu Asus màu trắng có dòng chữ Zenfone số sim 0913047526 của Đ; điện thoại di động hiệu Lumia 535 màu xanh số sim 0973933484 của P; điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng vàng ngà số sim 0942204999 của V.

Tại Bản kết luận giám định số 35/MT-PC54 ngày 29/4/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận:

- 01 bịch nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng thu giữ của V giao nộp là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 1,2037g.

- 01 bịch nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng thu giữ của Đ giao nộp là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,4239.

Xe mô tô biển số 61F1-337.33 do ông Trần Lê Hoàng Tân đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Ngày 26/4/2019, ông Tân cho V mượn đi chơi với bạn, việc V sử dụng xe đi mua ma túy ông Tân không biết. Cơ quan CSĐT đã giao trả xe này cho ông Tân.

Xe mô tô biển số 61S2-5331 do ông Bùi Văn Tiết đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Ông Tiết khai năm 2013 đã cho một người không rõ nhân thân lai lịch ở trọ gần nhà ông Tiết để đi công việc nhưng sau đó người này đi luôn và không quay lại trả xe cho ông, nay ông yêu cầu nhận lại xe này để tiếp tục sử dụng. P khai xe này do P mua của một người không rõ nhân thân lai lịch vào khoảng tháng 01/2019 với giá 7.000.000 đồng nhưng không làm giấy tờ, khi mua xe thì người bán xe có giao giấy đăng ký xe cho P. Qua xác minh xe này không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Cơ quan điều tra đã tiến hành thông báo tìm chủ sở hữu xe này gửi Đài phát thanh truyền hình Bình Dương và Đài phát thanh thị xã Tân Uyên nhưng không có kết quả.

Đi với đối tượng thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch) có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Vương Hoàng V, Lê Thành P, Võ Thành Đ ở khu vực ngã tư chợ Tân Phước Khánh thuộc khu phố Khánh Lợi, phường Tân Phước Khánh, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương vào ngày 29/4/2019. Do chưa xác định được nhân thân, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên chưa có căn cứ để xử lý, sẽ tiếp tục xác minh làm rõ để xử lý sau.

Đi với Hoàng Thị Hạnh, quá trình điều tra xác định việc Vương Hoàng V chở Hạnh về nhà ở xã Bình Mỹ, huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Trên đường đi thì V đi đến khu vực ngã tư chợ Tân Phước Khánh thuộc khu phố Khánh Lợi, phường Tân Phước Khánh, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương để V cùng Đ, P mua ma túy sử dụng, Hạnh không biết nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên không đề cập xử lý Hạnh về hành vi đồng phạm với V về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Cáo trạng số 188/CT-VKS.TU ngày 16/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên đã truy tố các bị cáo Vương Hoàng V, Lê Thành P và Võ Thành Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điều luật và xử phạt các bị cáo mức hình phạt cụ thể như sau:

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 58 của Bộ Luật Hình sự, xử phạt bị cáo Vương Hoàng V mức hình phạt từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 58 của Bộ Luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Thành P mức hình phạt từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 58 của Bộ Luật Hình sự, xử phạt bị cáo Võ Thành Đ mức hình phạt từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

- Đối với chất ma tuý loại methamphetamine, trọng lương còn lại sau giám định là 1,3337gam là vật chứng của vụ án, thuộc diện cấm lưu hành. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với điện thoại di động hiệu Asus, màu trắng có ghi chữ Zenfone có số sim 0913.047.526 của Võ Thành Đ. Qua điều tra xác định là tài sản cá nhân của Đ, không sử dụng vào mục đích thực hiện hành vi phạm tội nên đề nghị trả lại cho bị cáo Đ.

- Đối với điện thoại di động hiệu Lumia 535 màu xanh đen có ghi chữ Microsoft, số sim: 0973.933.484 của Lê Thành P và điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng vàng ngà, có ghi số Imel 354434068790032, có số sim 0942.204.999 của Vương Hoàng V. Qua điều tra xác định là công cụ các bị cáo sử dụng vào mục đích thực hiện hành vi phạm tội nên đề nghị tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

- Đối với xe mô tô biên số 61S2-5331 cùng giấy chứng nhận đăng ký xe. Qua điều tra xác định là tài sản của ông Bùi Văn Tiết, việc các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội ông Tiết không biết nên đề nghị trả lại cho ông Tiết.

Ti phiên tòa, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội đúng như cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố, lời nói sau cùng các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm về làm công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên tiến hành tố tụng đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các bị cáo, người tham gia tố tụng khác không khiếu nại gì đối với các quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

[2] Tại phiên toà, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố, lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp lời khai người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, do đó đủ cơ sở xác định: Ngày 29/4/2019, tại khu phố Khánh Lợi, phường Tân Phước Khánh, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, Vương Hoàng V và Lê Thành P có hành vi cất giữ 1,2037g ma tuý loại Methamphetamine; Võ Thành Đ có hành vi cất giữ 1,6276g ma tuý loại Methamphetamine. Việc cất giữ ma tuý của các bị cáo không được phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, các bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi cất giữ trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng vì thái độ coi thường pháp luật mà cố ý thực hiện. Do đó, hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố cũng như luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi mà các bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến việc quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất gây nghiện. Hiện nay, tình hình tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy đang diễn biến phức tạp trong mọi tầng lớp. Tệ nạn này là mối quan tâm của toàn xã hội, là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm hình sự khác, một trong những nguyên nhân dẫn đến tệ nạn này chưa được đẩy lùi chính là có sự tiếp tay của các bị cáo. Do đó, để có tác dụng giáo dục các bị cáo ý thức tuân theo pháp luật, cần có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

Trong vụ án có tính chất đồng phạm nhưng giản đơn, các bị cáo đều tham gia với vai trò là người thực hành. Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ tham gia thực hiện hành vi phạm tội của từng bị cáo.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Vương Hoàng V đã từng bị kết án chưa được xoá án tích nay lại phạm tội là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Các bị cáo Lê Thành P và Võ Thành Đ không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Căn cứ vào nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ, xét mức hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với các bị cáo là phù hợp.

[6] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

- Đối với chất ma tuý loại methamphetamine, trọng lượng còn lại sau giám định là 1,3337gam (được đựng trong 02 bì thư được niêm phong) là vật chứng của vụ án, thuộc diện cấm lưu hành. Vì vậy, cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với điện thoại di động hiệu Asus, màu trắng có ghi chữ Zenfone có số sim 0913.047.526 của Võ Thành Đ. Qua điều tra xác định là tài sản cá nhân của Đ, không sử dụng vào mục đích thực hiện hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo Đ.

- Đối với điện thoại di động hiệu Lumia 535 màu xanh đen có ghi chữ Microsoft, số sim: 0973.933.484 của Lê Thành P và điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng vàng ngà, có ghi số Imel 354434068790032, có số sim 0942.204.999 của Vương Hoàng V. Qua điều tra xác định là công cụ các bị cáo sử dụng vào mục đích thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

- Đối với xe mô tô biên số 61S2-5331, số máy 011146, số khung 11146, không có bửng, không baga, không mặt nạ, không hộp chắn xích; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy biển số 61S2-5331. Qua điều tra xác định là tài sản của ông Bùi Văn Tiết, việc các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội ông Tiết không biết nên trả lại cho ông Tiết.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Vương Hoàng V, Lê Thành P và Võ Thành Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

1. Về hình phạt:

1.1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Vương Hoàng V 02 (hai) năm 6 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.

Tiếp tục duy trì biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo Vương Hoàng V.

1.2. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Thành P 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29/4/2019.

1.3. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Võ Thành Đ 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29/4/2019.

2. Về xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp: Căn cứ vào Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 46, Điều 47 của Bộ luật Hình sự:

- Tịch tiêu huỷ:

+ 01 bì thư niêm phong, ký hiệu 351/PC09 (M1), ngoài bì thư có chữ ký người bị bắt Vương Hoàng V; người chứng kiến Võ Thành Đ, Lê Thành P; cán bộ niêm phong Dương Hữu Hiệp, hình dấu đỏ niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong bì thư có chứa chất Methamphetamine là đối tượng hoàn lại sau giám định theo Kết luận giám định số 351/MT-PC09 ngày 29/4/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương.

+ 01 bì thư niêm phong, ký hiệu 351/PC09 (M2), ngoài bì thư có chữ ký người bị bắt Võ Thành Đ; người chứng kiến Vương Hoàng V, Lê Thành P; cán bộ niêm phong Dương Hữu Hiệp, hình dấu đỏ niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong bì thư có chứa chất Methamphetamine là đối tượng hoàn lại sau giám định theo Kết luận giám định số 351/MT-PC09 ngày 29/4/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước điện thoại di động hiệu Lumia 535 màu xanh đen có ghi chữ Microsoft, số sim: 0973.933.484 và 01 (Một) điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng vàng ngà, có ghi số Imel 354434068790032, có số sim 0942.204.999.

- Trả lại cho bị cáo Võ Thành Đ điện thoại di động hiệu Asus, màu trắng có ghi chữ Zenfone có số sim 0913.047.526.

- Trả lại cho ông Bùi Văn Tiết xe mô tô biên số 61S2-5331, số máy 011146, số khung 11146, không có bửng, không baga, không mặt nạ, không hộp chắn xích; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy biển số 61S2-5331.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/10/2019 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên)

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Buộc các bị cáo Vương Hoàng V, Lê Thành P và Võ Thành Đ, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 189/2019/HS-ST ngày 19/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:189/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về