Bản án 188/2020/HS-ST ngày 08/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 188/2020/HS-ST NGÀY 08/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số số 194/2020/TLST-HS ngày 10 tháng 8 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 211/2020/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 8 năm 2020, đối với các bị cáo:

1. Lê K, sinh năm 1996 tại tỉnh B; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Tổ .. phường B, thành phố Q, tỉnh Bình Định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Trình độ văn hoá: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Cha: Lê Thanh H; Mẹ: Huỳnh Thị Tuyết N.

Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Bị bắt ngày 13-4-2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Vũng Tàu (Có mặt).

2. Bùi Đức Bảo N, sinh năm 2001 tại tỉnh K; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: số, đường T, phường K, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa; Chỗ ở: số., đường C, Phường B, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nữ; Trình độ văn hoá: 12/12; Nghề nghiệp: Không; Cha: Bùi Đức B (Đã chết); Mẹ: Trương Thị T.

Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Bị bắt ngày 13-4-2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Vũng Tàu (Có mặt).

3. Nguyễn Văn C, sinh năm 1996 tại tỉnh C; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khóm, ấp... , xã C, huyện T, tỉnh C; Chỗ ở: số., đường K, Phường B, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Trình độ văn hoá: 10/12; Nghề nghiệp: Không; Cha: Nguyễn Văn L; Mẹ: Nguyễn Thị H.

Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Bị bắt ngày 13/4/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Vũng Tàu (Có mặt).

4. Cao Xuân T, sinh năm 1994 tại tỉnh Q; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: số., đường T, phường T, Quận 2, thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 10/12; Nghề nghiệp: Không; Cha: Cao Xuân N; Mẹ: Lê Thị M; Vợ: Nguyễn Thị Huyền T; Có hai con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2015.

Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Bị bắt ngày 13-4-2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Vũng Tàu (Có mặt).

5. Nguyễn Ngọc N, sinh năm 1998 tại tỉnh Bình Định; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn .., xã Â, huyện H, tỉnh Bình Định; Chỗ ở: số., đường G, Phường B, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Trình độ văn hoá: 11/12; Nghề nghiệp: Không; Cha: Nguyễn Văn N; Mẹ: Nguyễn Thị Ánh T.

Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Bị bắt ngày 13-4-2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Vũng Tàu (Có mặt).

6. Nguyễn Thảo Uyên M, sinh năm 2001 tại tỉnh Khánh Hòa; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: số., đường P, Phường B, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nữ; Trình độ văn hoá: 11/12; Nghề nghiệp: Không; Cha: Nguyễn Quốc Đ; Mẹ: Hồ Minh T.

Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Bị bắt ngày 13-4-2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Vũng Tàu (Có mặt).

7. Nguyễn Bảo C, sinh năm 1995 tỉnh Ninh Bình; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Xóm ..., xã... huyện K, tỉnh Ninh Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 12/12; Nghề nghiệp: Không; Cha: Nguyễn Văn C; Mẹ: Vũ Thị H.

Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Bị bắt ngày 13/4/2020, đến ngày 10/6/2020 được áp dụng biện pháp cho bảo lĩnh, hiện đang được tại ngoại và ở tại Xóm ..., xã... huyện K, tỉnh Ninh Bình (Có mặt).

8. Võ Hiếu N, sinh năm 1988 tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: số., đường L, Phường B, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Trình độ văn hoá: 12/12; Nghề nghiệp: Không; Cha: Võ Thịnh M; Mẹ: Lê Thị C.

Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Bị bắt ngày 13-4-2020, đến ngày 22-4-2020 được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện cư trú tại địa chỉ : số., đường L, Phường B, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ 00 phút ngày 13 tháng 4 năm 2020, tại phòng ... chung cư G số 172 đường Hoàng Hoa Thám, Phường 2, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Vũng Tàu phối hợp với Công an Phường 2, thành phố Vũng Tàu bắt quả tang Nguyễn Thảo Uyên M, Nguyễn Văn C, Võ Hiếu N, Cao Xuân T, Nguyễn Bảo C, Lê K, Nguyễn Ngọc N có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, đồng thời thu giữ 01 gói nylon bên trong có chứa chất bột màu trắng (Ketamine) và 02 viên nén hình chiếc khiên (MDMA).

Khi cơ quan Công an bắt quả tang các đối tượng trên, trong phòng còn có Nguyễn Thị Diễm P, Hoàng Thúy K, Bùi Đức Bảo N, Trần Thế B, qua xét nghiệm thì P, K, N dương tính với ma túy, tiếp tục kiểm tra túi xách của Bùi Đức Bảo N, lực lượng chức năng thu giữ 04 viên ma túy dạng thuốc lắc (MDMA).

Cơ quan Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng và một số tài sản hên quan trong vụ án, niêm phong vật chứng và trưng cầu giám định.

Tại Bản kết luận giám định số 185/GĐMT - PC09(Đ2) ngày 21 tháng 4 năm 2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, kết luận:

1. Mẫu chất bột màu trắng chứa trong 01 gói nylon hàn kín (Mẫu A1), được niêm phong trong một phong bì màu trắng (số thứ tự 01), có hình dấu của Công an Phường 2, Công an thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cùng các chữ ký ghi họ tên: Trung tá Nguyễn Thế N, Lê Tiến D, Nguyễn Thảo Uyên M, Nguyễn Văn C, Cao Xuân T, Võ Hiếu N, Nguyễn Bảo C, “Lê K”, Nguyễn Ngọc N, Nguyễn Thị Diễm P, Hoàng Thúy K gửi đến giám định có khối lượng 0,3960 gam, là ma túy, loại Ketamine.

- Hai viên nén hình chiếc khiên màu xanh lá (Mẫu A2), được niêm phong trong cùng phong bì nêu trên gửi đến giám định có tổng khối lượng 0,7481 gam, là ma túy, loại MDMA.

2. Ba viên nén màu xanh lá không rõ hình dạng (Mẫu A3), được niêm phong trong một phong bì màu trắng (số thứ tự 02), trên có hình dấu của Công an phường 2 - Công an TP Vũng Tàu cùng các chữ ký ghi họ tên: Trung tá Nguyễn Thế N, Trương Quốc T, “Tống Hiệp H”, Bùi Đức Bảo N, gửi đến giám định có tổng khối lượng 1,0764 gam, là ma túy, loại MDMA.

- Một viên nén màu đỏ, hình vuông (Mẫu A4), được niêm phong trong cùng phong bì nêu trên gửi đến giám định có khối lượng 0,1761 gam, là ma túy, loại MDMA.

Quá trình điều tra, các bị cáo khai nhận: Vào tối ngày 12 tháng 4 năm 2020, M, C, N, T, C, K, N, N, P, Kvà Trần Thế B tổ chức nhậu tại phòng .. chung cư G, số ... đường Hoàng Hoa Thám, Phường 2, thành phố Vũng Tàu. Lúc này, N, C, Khang, N và T bàn nhau mua ma túy về sử dụng và cả nhóm thống nhất nhờ C và M mua ma túy. C lấy điện thoại của M gọi điện thoại cho một người tên Trinh (không rõ lai lịch) hỏi mua 06 viên thuốc lắc và 01 gói ma túy khay với giá 8.800.000 đồng. T và N mỗi người đưa cho M2.000.000 đồng còn N, K và C không mang tiền mặt nên hứa đưa tiền cho M sau. Sau đó, M cầm 4.000.000 đồng đi xuống dưới chung cư gặp Trinh lấy ma túy và nợ lại Trinh 4.800.000 đồng. M cầm ma túy lên phòng bỏ ra đĩa để cả nhóm sử dụng thì bị bắt quả tang như trên.

Qua điều tra, xác định số ma túy thu giữ trong túi xách của Bùi Đức Bảo N là của Lê K. Khang mượn túi xách của N để cất giấu ma túy nhằm mục đích sử dụng, N đồng ý với K về việc cho K để ma túy vào túi xách của mình, số ma túy này, K được một người bạn tên Bi (không rõ nhân thân, lai lịch) cho.

Lời khai của các bị can phù hợp với nhau và phù hợp với chứng cứ thu thập được.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị can:

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, Nguyễn Thảo Uyên M, Nguyễn Văn C, Võ Hiếu N, Cao Xuân T, Nguyễn Bảo C, Lê K, Nguyễn Ngọc N và Bùi Đức Bảo N thành khẩn khai báo, tỏ tái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội.

- Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng:

Khi bắt quả tang, cơ quan Công an thu giữ vật chứng và các tài sản gồm:

- 01 gói nilon bên trong có chứa chất bột màu trắng qua giám định có khối lượng 0,3960 gam, là ma túy, loại Ketamine; 02 viên nén hình chiếc khiên màu xanh lá qua giám định có tổng khối lượng 0,7481 gam, là ma túy, loại MDMA; 03 viên nén màu xanh lá không rõ hình dạng qua giám định có tổng khối lượng 1,0764 gam, là ma túy, loại MDMA; 01 viên nén màu đỏ, hình vuông qua giám định có tổng khối lượng 0,1761 gam, là ma túy, loại MDMA.

- Thu của Nguyễn Thảo Uyên M01 điện thoại di động hiệu Iphone có số IMEL: 013429006015164

- Thu của Nguyễn Văn C 01 điện thoại di động hiệu Iphone có số IMEL: 355838083508931.

- Thu của Cao Xuân T 01 điện thoại di động hiệu Iphone có số IMEL: 353045092965290; 01 ĐTDĐ hiệu Nokia màu đen có số IMEL: 353420090777924; 01 xe ô tô hiệu Honda hiệu Civic mang BKS: 71A-05084, số máy: R18Z16650046, số khung: MRHFC6630JT030047.

- Thu của Nguyễn Bảo C 01 điện thoại di động hiệu Iphone có số IMEL: 357275096916892.

- Thu của Lê K 01 điện thoại di động hiệu Iphone có số IMEL: 358373066193680.

- Thu của Nguyễn Ngọc N 01 điện thoại di động hiệu Iphone có số IMEL: 353257078365417.

- Thu của Bùi Đức Bảo N 01 điện thoại di động hiệu Iphone có số IMEL: 353899104551963; 01 túi xách màu nâu.

* Xử lý vật chứng:

- Đối với xe ô tô hiệu Honda Civic mang biển kiểm soát: 71A-05084, qua xác minh là xe của anh Huỳnh Lix Phol. Anh Phol không liên quan đến hành vi phạm tội của các bị can trong vụ án nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Vũng Tàu đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho anh Phol.

- Đối với số vật chứng và tài sản còn lại, hiện Cơ quan điều tra Công an thành phố Vũng Tàu đã chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu quản lý chờ xử lý.

Quá trình điều tra, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

Bản cáo trạng số 204/CT-VKS ngày 05 tháng 8 năm 2020, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố các bị cáo Lê K, Bùi Đức Bảo N; Nguyễn Thảo Uyên M, Nguyễn Văn C, Võ Hiếu N, Cao Xuân T, Nguyễn Ngọc N, Nguyễn Bảo C, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm C khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa:

Các bị cáo đã khai nhận về toàn bộ hành vi của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã truy tố bị cáo. Các bị cáo đã thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, tỏ ra ăn năn, hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo Nguyễn Văn C và Nguyễn Thảo Uyên M xác định đã sử dụng điện thoại Iphone có số IMEL: 355838083508931 của Công và điện thoại di động hiệu Iphone có số IMEL: 013429006015164 của My để liên lạc mua ma túy sử dụng.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với các bị cáo, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điểm C, i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê K từ 20 đến 30 tháng tù; xử phạt các bị cáo Bùi Đức Bảo N; Nguyễn Văn C; Võ Hiếu N; Cao Xuân T; Nguyễn Ngọc N; Nguyễn Thảo Uyên M từ 15 đến 18 tháng tù; xử phạt bị cáo Nguyễn Bảo C từ 12 đến 18 tháng.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Đề nghị tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma tuý là tang vật vụ án; Tịch thu sung ngân sách nhà nước điện thoại di động hiệu Iphone có số IMEL: 355838083508931 của Nguyễn Văn C và điện thoại di động hiệu Iphone có số IMEL: 013429006015164 của Nguyễn Thảo Uyên M vì hên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội của các bị cáo; hoàn trả lại điện thoại di động hiệu Iphone có số IMEL: 353045092965290; 01 ĐTDĐ hiệu Nokia màu đen có số IMEL: 353420090777924 cho Cao Xuân T; 01 điện thoại di động hiệu Iphone có số IMEL: 357275096916892 cho Nguyễn Bảo C; 01 điện thoại di động hiệu Iphone có số IMEL: 358373066193680 cho Lê K; 01 điện thoại di động hiệu Iphone có số IMEL: 353257078365417 cho Nguyễn Ngọc N; 01 điện thoại di động hiệu Iphone có số IMEL: 353899104551963 cho Bùi Đức Bảo N; Tịch thu tiêu hủy: 01 túi xách màu nâu đã hết giá trị sử dụng của Bùi Đức Bảo N vì liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội của bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Đề nghị không phạt tiền đối với các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đứng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, các bị cáo Lê K, Bùi Đức Bảo N; Nguyễn Thảo Uyên M, Nguyễn Văn C, Võ Hiếu N, Cao Xuân T, Nguyễn Ngọc N, Nguyễn Bảo C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố. Xét lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án là hoàn toàn phù hợp, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định:

Lê K, Bùi Đức Bảo N; Nguyễn Thảo Uyên M, Nguyễn Văn C, Võ Hiếu N, Cao Xuân T, Nguyễn Ngọc N, Nguyễn Bảo C có hành vi tang trữ 0,3960 gam ma túy loại Ketamine và 0,7481 gam ma túy loại MDMA để sử dụng; đồng thời bị cáo Lê K còn nhờ Bùi Đức Bảo N giữ giúp 1,0764 gam ma túy loại MDMA và 0,1761 gam ma túy loại MDMA để sử dụng. Hành vi nêu trên của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm C, i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Do đó, 204/CT-VKS ngày 05 tháng 8 năm 2020, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố các bị cáo Lê K, Bùi Đức Bảo N; Nguyễn Thảo Uyên M, Nguyễn Văn C, Võ Hiếu N, Cao Xuân T, Nguyễn Ngọc N, Nguyễn Bảo C, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm C, I khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

Đối với người phụ nữ tên Trinh và người đàn ông tên Bi (không rõ lai lịch) là người bán ma túy cho các bị cáo, đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Vũng Tàu tiếp tục điều tra, xác minh để xử lý theo quy định pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng đối với hành vi phạm tội của bị cáo: Xét tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra là nguy hiểm cho xã hội; đã xâm phạm đến quyền quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy; gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội nên cần phải xử lý nghiêm, áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm đối với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm giáo dục riêng để bị cáo sớm trở thành công dân tốt và răn đe, phòng ngừa chung về tội phạm xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, tích cực phối hợp với cơ quan tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về tính chất đồng phạm và mức hình phạt: Các bị cáo Lê K, Bùi Đức Bảo N; Nguyễn Thảo Uyên M, Nguyễn Văn C, Võ Hiếu N, Cao Xuân T, Nguyễn Ngọc N, Nguyễn Bảo C cùng cố ý thực hiện hành vi phạm tội, nhung không có sự bàn bạc, câu kết chặt chẽ nên thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn. Trong đó, bị cáo Nguyễn Văn C và Nguyễn Thảo Uyên M trực tiếp liên lạc mua ma túy, các bị cáo Cao Xuân T, Võ Hiếu N, Lê K, Nguyễn Bảo C đồng ý góp tiền mua ma túy sử dụng nên có vai trò như nhau nên chịu mức hình phạt như nhau.

Bị cáo Lê K còn nhờ Bùi Đức Bảo N giữ giúp 1,0764 gam ma túy loại MDMA và 0,1761 gam ma túy loại MDMA để sử dụng nên Lê K và Bùi Đức Bảo N còn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi tang trữ số ma túy này. Tuy nhiên, khi xem xét lượng hình cần phải xác định trách nhiệm hình sự của bị cáo Khang nặng hơn bị cáo Ngọc.

[6] về hình phạt bổ sung: Các bị cáo sử dụng ma túy, không xác định được thu nhập và tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma tuý là tang vật vụ án;

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước điện thoại di động hiệu Iphone có số IMEL: 355838083508931 của Nguyễn Văn C và điện thoại di động hiệu Iphone có số IMEL: 013429006015164 của Nguyễn Thảo Uyên M vì liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội của các bị cáo.

- Hoàn trả lại điện thoại di động hiệu Iphone có số IMEL: 353045092965290; 01 ĐTDĐ hiệu Nokia màu đen có số IMEL: 353420090777924 cho Cao Xuân T; 01 điện thoại di động hiệu Iphone có số IMEL: 357275096916892 cho Nguyễn Bảo C; 01 điện thoại di động hiệu Iphone có số IMEL: 358373066193680 cho Lê K; 01 điện thoại di động hiệu Iphone có số IMEL: 353257078365417 cho Nguyễn Ngọc N và 01 điện thoại di động hiệu Iphone có số IMEL: 353899104551963 cho Bùi Đức Bảo N vì không liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội của các bị cáo.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 túi xách màu nâu đã hết giá trị sử dụng của Bùi Đức Bảo N vì liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội của bị cáo.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng điểm C, điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự:

1.1. Tuyên bố các bị cáo: Lê K, Bùi Đức Bảo N; Nguyễn Thảo Uyên M, Nguyễn Văn C, Võ Hiếu N, Cao Xuân T, Nguyễn Ngọc N, Nguyễn Bảo C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1.2. Xử phạt bị cáo Lê K 20 (Hai mươi) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 13 tháng 4 năm 2020.

1.3. Xử phạt bị cáo Bùi Đức Bảo N 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 13 tháng 4 năm 2020.

1.4. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 13 tháng 4 năm 2020.

1.5. Xử phạt bị cáo Cao Xuân T 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 13 tháng 4 năm 2020.

1.6. Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc N 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 13 tháng 4 năm 2020.

1.7. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thảo Uyên M 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 13 tháng 4 năm 2020.

1.8. Xử phạt bị cáo Nguyễn Bảo C 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày bị bắt để thi hành án được trừ vào thời gian tạm giam từ ngày 13 tháng 4 năm 2020 đến ngày 10 tháng 6 năm 2020.

1.9. Xử phạt bị cáo Võ Hiếu N 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày bị bắt để thi hành án, được khấu trừ vào thời gian tạm giam từ ngày 13 tháng 4 năm 2020 đến ngày 22 tháng 4 năm 2020.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy là tang vật vụ án theo gói niêm phong số 185/1 và 185/2 ngày 21 tháng 4 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tinh Bà Rịa-Vũng Tàu.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước điện thoại di động hiệu Iphone có số IMEL: 355838083508931 của Nguyễn Văn C và điện thoại di động hiệu Iphone có số IMEL: 013429006015164 của Nguyễn Thảo Uyên M vì liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội của các bị cáo.

- Hoàn trả lại điện thoại di động hiệu Iphone có số IMEL: 353045092965290; 01 ĐTDĐ hiệu Nokia màu đen có số IMEL: 353420090777924 cho Cao Xuân T; 01 điện thoại di động hiệu Iphone có số IMEL: 357275096916892 cho Nguyễn Bảo C; 01 điện thoại di động hiệu Iphone có số IMEL: 358373066193680 cho Lê K; 01 điện thoại di động hiệu Iphone có số IMEL: 353257078365417 cho Nguyễn Ngọc N và 01 điện thoại di động hiệu Iphone có số IMEL: 353899104551963 cho Bùi Đức Bảo N vì không liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội của các bị cáo.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 túi xách màu nâu đã hết giá trị sử dụng của Bùi Đức Bảo N vì hên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội của bị cáo.

Toàn bộ vật chứng nêu trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu đang quản lý theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số: 201/BB.THA ngày 08 tháng 9 năm 2020.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo Lê K, Bùi Đức Bảo N; Nguyễn Thảo Uyên M, Nguyễn Văn C, Võ Hiếu N, Cao Xuân T, Nguyễn Ngọc N, Nguyễn Bảo C được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

363
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 188/2020/HS-ST ngày 08/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:188/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về