Bản án 188/2020/HS-ST ngày 07/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 188/2020/HS-ST NGÀY 07/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 199/2020/TLST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 248/2020/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Ngọc S (tên gọi khác: Bin), sinh năm: 2000 tại Bình Thuận; Nơi cư trú: Khu phố 05, phường P, Tp P, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Ngọc Châu, sinh năm 1968 và bà Lê Thị Thu Hằng, sinh năm 1968; Vợ con chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo đang tại ngoại tại địa phương và bị áp dụng iện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; Có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Ông Trần Văn A, sinh năm 1973 Địa chỉ: Khu phố 01, phường Lạc Đạo, Tp Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn iến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 18 giờ ngày 05/5/2020, Nguyễn Ngọc S chơi trò chơi trực tuyến game online và liên lạc với Phúc (không rõ nhân thân) qua mạng, sau đó Phúc rủ S đi nhậu thì S đồng ý và hẹn nhau ra quán Hồ Tôm ở phường Phú Thủy nhậu đến khoảng 19 giờ 20 phút cùng ngày. Tại đây S có kể cho Phúc nghe về việc S có sử dụng ma túy đá nên Phúc rủ S về nhà nghỉ XX phía sau lưng khách sạn 19/4 thuộc phường Xuân An (nơi Phúc đang thuê) để sử dụng ma túy thì S đồng ý. Khi tới nơi, cả hai lên phòng số 6, Phúc lấy ộ dụng cụ sử dụng ma túy đá ra, ỏ ma túy đá vào để S và Phúc sử dụng. Cả hai sử dụng ma túy đá đến khoảng hơn 20 giờ cùng ngày thì S ra về. Trước khi về, Phúc cho S một hộp sắt màu đỏ, ên trong có chứa hai gói ma túy đá gồm: Một gói đựng trong bịch nylon không màu, hàn kín và một gói đựng trong bịch nylon không màu, một đầu có khóa nhựa kéo và nói “Cầm về xài đi”. S nghe Phúc nói vậy nên đã nhận số ma túy đá trên ỏ trong giỏ xách S đang đeo trên người rồi đi về nhà tại khu phố 05, phường Phú Tài. Trong thời gian ở nhà đến khoảng 00 giờ 30 phút ngày 07/5/2020 S đều mang giỏ xách có chứa số ma túy đá Phúc cho mang ên người.

Khong 00 giờ 30 phút ngày 07/5/2020, S mang giỏ xách có chứa hộp sắt màu đỏ bên trong có số ma túy đá nói trên vào người rồi điều khiển xe mô tô iển số 86C1-935.XX đi qua phường Đức Nghĩa gặp chị của S để giao nón ảo hiểm. Khi S chạy đến đường Trưng Nhị thuộc khu phố 8, phường Đức Nghĩa, thành phố Phan Thiết thì bị Tổ liên quân 512 – Công an tỉnh Bình Thuận yêu cầu dừng xe kiểm tra và phát hiện S đang tàng trữ trái phép chất ma túy trong giỏ xách đang đeo trên người.

Vật chứng thu giữ:

- 01 hộp sắt màu đỏ, để trong túi xách màu đen S đang đeo trên người S, bên trong gồm có: 01 gói nylon không màu, hàn kín, kích thước khoảng (1 x 3) cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng và 01 gói nylon không màu, một đầu có khóa nhựa kéo, kích thước khoảng (4 x 8) cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng. (ký hiệu M khi giám định).

- 01 xe máy hiệu Suzuki Raider màu đen, iển số 86C1 – 935.XX; Số khung: 11ANKV130608; Số máy: CGA1531194.

Tại Kết luận giám định số 489/KLGĐ-PC09 ngày 21/5/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận kết luận:

- Mẫu M có khối lượng 0,2822 gam là Methamphetamine (Bút lục số 21). Hoàn lại mẫu vật gửi đến giám định: Gói nylon đã cắt lấy mẫu và 0,2136 gam mẫu M còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 489 có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.

Đối với chiếc giỏ xách đựng hộp sắt (bên trong hộp sắt chứa ma túy) là loại giỏ đựng đồ dùng cá nhân. Ngoài chiếc hộp sắt, quá trình kiểm tra không phát hiện ma túy trong giỏ xách nên lực lượng chức năng đã trả lại cho S.

Đối với chiếc xe mô tô iển kiểm soát 86C1 – 935.XX, qúa trình điều tra xác định xe mô tô iển số 86C1-935.XX thuộc quyền sử hữu của ông Trần Văn A.

Ngày 04/5/2020 ông A cho S mượn làm phương tiện đi lại, việc S sử dụng xe mô tô nói trên vào hoạt động phạm tội, ông A không iết nên Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Phan Thiết đã xử lý vật chứng trả lại xe mô tô cho ông Trần Văn A, sau khi nhận lại tài sản ông A không có yêu cầu gì về dân sự.

Tại ản Cáo trạng số 197/CT-VKS ngày 09/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết quyết định, truy tố bị cáo: Nguyễn Ngọc S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết phát iểu quan điểm xử lý về vụ án như sau:

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên ố: Nguyễn Ngọc S, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Ngọc S 12 tháng tù đến 18 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu, tiêu hủy: Gói nylon đã cắt lấy mẫu và 0,2136 gam mẫu M còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 489 có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận và 01 hộp sắt màu đỏ là vật cấm tàng trữ, lưu hành và không có giá trị sử dụng.

Đối với chiếc xe mô tô iển số 86C1 – 935.XX, quá trình điều tra xác định thuộc quyền sở hữu của ông Trần Văn A. Cơ quan cảnh sát điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho ông A nên không tiếp tục đặt ra để xem xét.

Đối với đối tượng tên Phúc, bị cáo S khai là nguồn cung cấp ma túy cho S, do không rõ nhân thân, địa chỉ nên không đủ căn cứ xác minh để xử lý.

Tại phiên tòa bị cáo S xác định cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là không sai và không tranh luận gì, thống nhất với quan điểm luận tội của Viện kiểm sát và đề nghị hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Cơ quan điều tra Công an thành phố Phan Thiết và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, theo hồ sơ đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự và thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Ngọc S không thắc mắc, khiếu nại về những hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Trần Văn A vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt và đã có đầy đủ lời khai trong hồ sơ vụ án, không gây trở ngại cho việc xét xử. Vì vậy Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo S thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu. Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và đã được xem xét tại phiên tòa nên có đủ cơ sở kết luận: Nguyễn Ngọc S là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của chất ma túy đối với người sử dụng và nhận thức được việc tàng trữ chất ma túy là trái pháp luật nhưng vì ăn chơi, đua đòi và xem thường pháp luật nên vào khoảng 00 giờ 30 phút ngày 07/5/2020, trên đường Trưng Nhị thuộc khu phố 08, phường Đức Nghĩa, Tp Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Nguyễn Ngọc S có hành vi tàng trữ trái phép 0,2822 gam Methamphetamine thì bị phát hiện, bắt quả tang. Bị cáo S thực hiện hành vi với lỗi cố ý. Hành vi nêu trên của bị cáo S đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Cho nên cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận đã truy tố đối với bị cáo S là có căn cứ, đúng người, đúng quy định của pháp luật.

[4] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của nhà nước về chất ma túy, mà còn gây mất an ninh trật tự tại địa phương, là nguyên nhân gián tiếp dẫn đến việc thực hiện nhiều loại tội phạm khác.

[5] Về tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng; về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai áo, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần xem xét áp dụng khi lượng hình đối với bị cáo.

Trên cơ sở cân nhắc tính chất, mức độ phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân và mức hình phạt do đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên cần phải xử lý nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để trừng trị, giáo dục bị cáo ý thức tuân thủ pháp luật, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới; đồng thời giáo dục những người khác iết tôn trọng pháp luật, tích cực tham gia phòng, chống tội phạm.

[6] Về xử lý vật chứng:

Gói nylon đã cắt lấy mẫu và 0,2136 gam mẫu M còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 489 có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận và 01 hộp sắt màu đỏ là vật cấm tàng trữ, lưu hành và không có giá trị nên tịch thu, tiêu hủy;

Đối với chiếc xe mô tô iển kiểm soát 86C1 – 935.XX, qúa trình điều tra xác định xe mô tô trên thuộc quyền sử hữu của ông Trần Văn A. Ngày 04/5/2020 ông A cho S mượn làm phương tiện đi lại, việc S sử dụng xe mô tô nói trên vào hoạt động phạm tội, ông A không biết. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Thiết đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho ông A, sau khi nhận lại tài sản ông A không có yêu cầu gì về dân sự nên không tiếp tục đặt ra để xử lý.

[7] Đối với đối tượng tên Phúc, bị cáo S khai là nguồn cung cấp ma túy cho S, do không rõ nhân thân, địa chỉ. Do không xác định được nhân thân, địa chỉ của đối tượng này nên không xử lý là có cơ sở.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Ngọc S, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Ngọc S 12 (mười hai) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt thi hành án.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu, tiêu hủy gói nylon đã cắt lấy mẫu và 0,2136 gam mẫu M còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 489 có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận và 01 hộp sắt màu đỏ theo Biên ản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 18 ngày 17/11/2020;

Áp dụng: Khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo Nguyễn Ngọc S phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Quyền kháng cáo ản án sơ thẩm của bị cáo là 15 ngày kể từ ngày tuyên án;

Của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Trần Văn A vắng mặt là 15 ngày kể từ ngày nhận được ản án hoặc ngày ản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

397
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 188/2020/HS-ST ngày 07/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:188/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về