Bản án 187/2020/HS-ST ngày 16/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 187/2020/HS-ST NGÀY 16/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở, Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 186/2020/TLST – HS ngày 28 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 188/2020/QĐXXST - HS ngày 04/9/2020, đối với các bị cáo:

1. Phan Lưu Vũ L, sinh ngày 11 tháng 12 năm 2003 tại Bạc Liêu; hộ khẩu thường trú: Khóm 2, phường H, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu; chỗ ở hiện nay: Khu phố 6, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn T, sinh năm 1982 và bà Lưu Bình T, sinh năm 1985; tiền án, tiền sự: Không; ngày 17/5/2020 bị bắt quả tang, bị tạm giữ, sau chuyển qua tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Bến Cát cho đến nay. Bị cáo có mặt.

2. Trần Văn K, sinh năm 1999 tại Cà Mau; hộ khẩu thường trú: Ấp H, xã H, thành phố C, tỉnh Cà Mau; chỗ ở hiện nay: Khu phố 6, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 03/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn T, sinh năm 1976 và bà Võ Thị T, sinh năm 1978; tiền án: Ngày 16/3/2018, bị Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xử phạt 10 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 22/5/2019, chưa chấp hành xong án phí; ngày 28/3/2018, bị Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xử phạt 10 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 22/5/2019, chưa chấp hành xong phần bồi thường dân sự và án phí; tiền sự: Không; ngày 17/5/2020 bị bắt quả tang, bị tạm giữ, sau chuyển qua tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Bến Cát cho đến nay. Bị cáo có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Phan Văn Vũ L: Ông Phan Văn T, sinh năm 1982 và bà Lưu Bình T, sinh năm 1985; cùng địa chỉ thường trú: Khóm 2, phường H, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu; cùng địa chỉ tạm trú: Khu phố 6, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương, nghề nghiệp: Buôn bán; là cha, mẹ ruột của bị cáo L; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Phan Lưu Vũ L: Ông Cao Ngọc Lộc – Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp Pháp lý tỉnh Bình Dương; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 19 giờ ngày 17/5/2020, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế - Ma túy phối hợp Công an phường Thới Hòa tuần tra, phát hiện Trần Văn K và Phan Lưu Vũ L có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra khi cả hai đang ngồi trên xe mô tô biển số 61F4-3046 đậu sát lề đường TC1, phía trước quán cà phê D và D thuộc khu phố 6, phường T, thị xã B. Qua kiểm tra, lực lượng Công an phát hiện và lập biên bản thu giữ: 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng bên trong túi quần bên phải phía trước L đang mặc và 01 xe mô tô nhãn hiệu Plus màu xanh, biển số 61F4-3046.

Tại cơ quan điều tra, L và K khai nhận là bạn bè ngoài xã hội và đều nghiện ma túy đá từ đầu năm 2020. Nguồn ma túy L và K có sử dụng là mua của người thanh niên tên N (không rõ nhân thân lai lịch) tại khu vực thuộc khu phố 6, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương. Khoảng 18 giờ ngày 17/5/2020, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên L điện thoại kêu K đến phòng trọ của L tại đường D20, khu phố 6, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương để cùng nhau đi mua ma túy về sử dụng, K đồng ý. Sau đó, K điều khiển xe mô tô biển số 61F1-3046 đến chở L đi đến khu vực đường N1 thuộc khu phố 4, phường M, thị xã B, tỉnh Bình Dương tìm gặp người thanh niên tên N để mua ma túy. Khi gặp được N, L đưa cho K 300.000 đồng để mua ma túy, K đưa tiền cho N thì N đưa cho L 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng. L cất gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng này vào túi quần bên phải phía trước đang mặc. Sau đó, K chở L quay lại về phòng trọ của K. Khoảng 19 giờ cùng ngày, khi K và L đang ngồi trên xe mô tô biển số 61F4-3046 trước quán D và D thuộc khu phố 6, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương thì bị lực lượng Công an kiểm tra, bắt giữ.

Theo kết luận giám định số 306/MT-PC09 ngày 25/5/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,3632 gam, loại Methamphetamine.

Xe mô tô hiệu Plus, màu xanh, biển số 61F4-3046, K mượn của một người bạn xã hội tên L (không rõ nhân thân, lai lịch). Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát tiến hành tra cứu phương tiện giao thông và đăng báo tìm chủ sở theo quy định.

Đối với người thanh niên tên N đã bán ma túy cho L và K không rõ nhân thân, lai lịch, hiện Cơ quan điều tra đang tiếp tục điều tra làm rõ, khi xác định được sẽ xử lý sau.

Tại bản Cáo trạng số 197/CT-VKS - BC ngày 28 tháng 8 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Phan Lưu Vũ L và Trần Văn K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa;

- Các bị cáo thống nhất hành vi phạm tội của các bị cáo như nội dung Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương đã truy tố.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo L trình bày: Thống nhất với lời trình bày của bị cáo L về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Người bào chữa chỉ định cho bị cáo L trình bày ý kiến: Thống nhất về tội danh, điều luật áp dụng đối với hành vi phạm tội của bị cáo L. Tuy nhiên, ông đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo L được hưởng mức án thấp nhất.

Đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo theo tội danh, điều luật như Cáo trạng số 197/CT- VKS - BC ngày 28 tháng 8 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 91, 101 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt: Bị cáo Phan Văn Vũ L mức án từ 09 (chín) tháng đến 12 (mười hai) tháng tù.

- Căn điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58, điểm h khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt: Bị cáo Trần Văn K mức án từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bì thư dán kín số 306/PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong có chứa 0,2970 gam Methamphetamine (theo Kết luận giám định số 306/MT – PC09 ngày 25/5/2020 );

- Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước: 01 xe mô tô hiệu Plus màu xanh Biển số 61F4 – 3046, số khung 05000809, số máy 0003809 (xe không gương bên phải, không chìa khóa, không bưởng, xe cũ nát).

Phần tranh luận, các bị cáo không có ý kiến tranh luận, thống nhất với tội danh, điều luật và mức hình phạt mà đại diện Viện Kiểm sát truy tố và đề nghị.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Không có tranh luận gì thêm mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo L.

Người bào chữa cho bị cáo L tranh luận: Ông thống nhất về tội danh, điều luật và mức hình phạt mà đại diện Viện Kiểm sát truy tố và đề nghị. Tuy nhiên, trong suốt quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo L đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, tại thời điểm phạm tội bị cáo là người chưa thành niên nhận thức còn hạn chế nên ông đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và tuyên phạt bị cáo L mức án thấp nhất.

Lời nói sau cùng các bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo.

Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo Phan Lưu Vũ L và Trần Văn K đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng số 197/CT-VKS – BC ngày 28 tháng 8 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương đã truy tố. Lời khai của các bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra và tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 19 giờ ngày 17/5/2020, tại đường TC1 trước quán D và D thuộc khu phố 6, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương, các bị cáo Phan Lưu Vũ L và Trần Văn K đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,3632 gam ma túy loại Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng. L là người bỏ tiền mua ma túy và rủ K cùng đi mua ma túy, K là người liên hệ với đối tượng bán ma túy và sử dụng xe mô tô chở L đi mua ma túy. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu hành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Như vậy: Bản cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Phan Lưu Vũ L và Trần Văn K về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, phù hợp hoàn toàn với hành vi thực tế mà các bị cáo đã gây ra.

[3] Về tính chất, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Về tình chất: Các bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, biết tác hại của ma túy không chỉ huỷ hoại sức khoẻ con người mà còn là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm, tệ nạn xã hội khác. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của các bị cáo là hết sức nguy hiểm, không những xâm phạm chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với chất ma tuý mà còn ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự công cộng tại địa phương. Các bị cáo biết rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện một cách liều lĩnh, xem thường pháp luật. Do đó, cần phải xét xử các bị cáo thật nghiêm minh để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Phan Lưu Vũ L không có tình tiết tăng nặng. Đối với bị cáo K, bị cáo có tiền án về tội “trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội mới nên Hội đồng xét xử xác định bị cáo phạm tội với tình tiết tăng nặng là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Bị cáo Phan Lưu Vũ L phạm tội vào ngày 17 tháng 5 năm 2020. Theo Bản kết luận giám định pháp y về độ tuổi số 0186//ĐT/2020, ngày 13 tháng 3 năm 2020 của Trung tâm Pháp y thuộc Sở Y tế Đồng Nai, kết luận: Độ tuổi của Phan Lưu Vũ L là 17 tuổi (+ - 06 tháng) kể từ ngày giám định ngày 13 tháng 3 năm 2020. Như vậy, tại thời điểm phạm tội, bị cáo L được 17 tuổi 8 tháng 14 ngày. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 91, 98, 101 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 khi xem xét mức hình phạt cho bị cáo L.

[5] Về hành vi đồng phạm: Các bị cáo phạm tội có tính chất đồng phạm, giản đơn, bị cáo L là người khởi xưởng và rủ rê bị cáo K đi mua ma túy về sử dụng, bị cáo L là người bỏ tiền, bị cáo K là người trực tiếp liên hệ với đối tượng bán ma túy và chở bị cáo L đi mua ma túy. Vì vậy Hội đồng xét xử xác định hành vi phạm tội của 02 bị cáo là ngang nhau.

[6] Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bì thư dán kín số 306/PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong có chứa 0,2970 gam Methamphetamine (theo Kết luận giám định số 306/MT – PC09 ngày 25/5/2020 );

- Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước: 01 xe mô tô hiệu Plus màu xanh Biển số 61F4 – 3046, số khung 05000809, số máy 0003809 (xe không gương bên phải, không chìa khóa, không bưởng, xe cũ nát).

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/9/2020 giữa Công an thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương với Chi cục thi hành án dân sự thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương).

Đối với người thanh niên tên N đã bán ma túy cho L và K không rõ nhân thân, lai lịch, hiện Cơ quan điều tra đang tiếp tục điều tra làm rõ, khi xác định được sẽ xử lý sau.

[7] Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát về tội danh, điều luật và mức hình phạt đối với các bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố:

Bị cáo Phan Lưu Vũ L và Trần Văn K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 58, Điều 91, 98, 101, điểm s khoản 1 Điều 51, Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Phan Văn Vũ L 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/5/2020.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 58, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Trần Văn K 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/5/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bì thư dán kín số 306/PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong có chứa 0,2970 gam Methamphetamine (theo Kết luận giám định số 306/MT – PC09 ngày 25/5/2020 );

- Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước: 01 xe mô tô hiệu Plus màu xanh Biển số 61F4 – 3046, số khung 05000809, số máy 0003809 (xe không gương bên phải, không chìa khóa, không bưởng, xe cũ nát).

Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/9/2020 giữa Công an thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương với Chi cục Thi hành án thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

3. Về án phí: Căn cứ các Điều 135; 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Phan Văn Vũ L và Trần Văn K mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Phan Lưu Vũ L, Trần Văn K, người đại diện hợp pháp của bị cáo Phan Lưu Vũ L có mặt được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 187/2020/HS-ST ngày 16/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:187/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về