TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 185/2019/HS-ST NGÀY 18/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 18 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 190/2019/TLST-HS ngày 09 tháng 9 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 188/2019/QĐXXST- HS ngày 07 tháng 10 năm 2019, đối với bị cáo:
Họ và tên: Lò Văn S; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1983 tại Điện Biên; Nơi cư trú: Đội 9, xã Th, huyện Đ, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lò Văn S - sinh năm 1950; Con bà: Lò Thị H - sinh năm 1954; Vợ: Lò Thị T - Sinh năm: 1986 (Đã ly hôn năm 2014); Hiện bị cáo đang chung sống như vợ chồng với Lò Thị H - sinh 1988; Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Chưa bị kết án, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 28/6/2019, sau đó bị tạm giam cho đến nay - Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18 giờ ngày 28/6/2019 Lò Văn S đi bộ từ nhà tại Đội 9, xã Th, huyện Đ, tỉnh Điện Biên đến Đội 10, xã Thanh H, huyện Đ với mục đích mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Khi đến đầu Đội 10, xã Thanh H, S gặp và hỏi mua được 2 gói ma túy, trong đó: 01 gói Heroine được gói bên ngoài bằng giấy bạc màu vàng và 10 viên Methamphetamine được gói bên ngoài bằng nilon màu hồng của một người đàn ông dân tộc Thái khoảng 26 tuổi (không biết tên, địa chỉ) với giá 400.000 đồng. Mua xong S đã cất 02 gói ma túy vào túi quần bên phải đang mặc rồi đi bộ về nhà. Hồi 18 giờ 30 phút cùng ngày, khi S đi đến Đội 9, xã Th, huyện Đ thì bị tổ công tác Công an huyện Đ phối hợp với Đồn biên phòng P và công an xã Th bắt quả tang, thu giữ trong túi quần bên phải của S đang mặc 01 gói Heroine có khối lượng 0,1 gam (không phẩy một gam) và 01 gói chứa 10 viên Methamphetamine có khối lượng 0,99 gam (không phẩy chín mươi chín gam).
Tại bản kết luận giám định số: 741/GĐ-PC09 ngày 08/7/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn S gửi giám định là ma túy loại Heroine, mẫu viên nén màu hồng trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn S gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng vật chứng thu giữ của Lò Văn S gồm: 0,1 gam chất bột màu trắng và 0,99 gam viên nén màu hồng. Heroine nằm trong danh mục chất ma túy, STT 9, Mục IA, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018. Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT 323, Mục IIC, Danh mục II, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018. Không hoàn lại đối tượng giám định.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định trên của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên.
Về vật chứng của vụ án: Ngày 10/9/2019 cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Điện Biên đã chuyển vật chứng của vụ án sang cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Điện Biên gồm: 0,06 gam Heroine và 0,79 gam Methamphetamine còn lại sau khi giám định.
Bản cáo trạng số: 185/CT-VKSĐB ngày 09/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Lò Văn S về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự;
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
* Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lò Văn S với mức hình phạt từ 18 đến 21 tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
* Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 0,1 gam Heroine (đã trích 0,04 gam gửi giám định không hoàn lại) và 0,99 gam Methamphetamine (đã trích 0,2 gam gửi giám định không hoàn lại) là vật chứng thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành là vật chứng của vụ án.
* Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án bị cáo Lò Văn S phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng và bản luận tội của Kiểm sát viên. Thực hiện lời nói sau cùng bị cáo Lò Văn S đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa S khai nhận do muốn có ma túy để sử dụng cho bản thân nên vào khoảng 18 giờ ngày 28/6/2019 S đi bộ từ nhà đến Đội 10, xã Th mua được 2 gói ma túy (01 gói Heroine được gói bên ngoài bằng giấy bạc màu vàng và 10 viên Methamphetamine được gói bên ngoài bằng nilon màu hồng) của một người đàn ông dân tộc Thái khoảng 26 tuổi (không biết tên, địa chỉ) với giá 400.000 đồng. Đến hồi 18 giờ 30 phút cùng ngày, khi S đi đến Đội 9, xã Th, huyện Đ thì bị phát hiện bắt quả tang, thu giữ trong túi quần bên phải của S đang mặc 01 gói Heroine có khối lượng 0,1 gam và 01 gói chứa 10 viên Methamphetamine có khối lượng 0,99 gam.
Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác do Cơ quan điều tra tiến hành thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án.
Hội đồng xét xử đã đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 18 giờ 30 phút ngày 28/6/2019 tại khu vực Đội 9, xã Th, huyện Đ bị cáo đã có hành vi cất giấu trên người 0,1 gam Heroine và 0,99 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng cho bản thân. Theo quy định tại Điều 4 Nghị định 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính Phủ về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích các chất ma túy tại một số điều của Bộ luật hình sự thì tổng khối lượng hai chất ma túy bị cáo tàng trữ là 1,09 gam. Như vậy, hành vi tàng trữ trái phép hai chất ma túy có tổng khối lượng 1,09 gam của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, bản luận tội của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:
1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
...
i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này;
Lò Văn S là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.
Từ những phân tích trên, khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Lò Văn S về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là hoàn toàn đúng người, đúng tội và có căn cứ pháp luật.
[2] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, bởi nó đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy. Vì vậy, việc truy tố, xét xử và áp dụng mức hình phạt thỏa đáng đối với bị cáo là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung.
[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Nguyên nhân chính dẫn đến phạm tội là do bị cáo nghiện sử dụng ma túy từ năm 1999 cho đến nay, vì muốn có ma túy để phục vụ cho nhu cầu của bản thân nên đã bất chấp pháp luật dấn thân vào con đường phạm tội. Trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bố đẻ của bị cáo được Nhà nước tặng thưởng Huân huy chương kháng chiến hạng Nhì nên cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy để thể hiện sự khoan hồng của Đảng, Pháp luật của Nhà nước ta đối với người phạm tội, Hội đồng xét xử cần xem xét giảm nhẹ phần nào về hình phạt cho bị cáo khi lượng hình. Tuy nhiên, căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ý thức chấp hành pháp luật, đồng thời đây cũng là điều kiện thuận lợi để bị cáo từ bỏ được ma túy sớm trở lại hòa nhập với gia đình và cộng đồng.
Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt tù có thời hạn với mức hình phạt từ 18 đến 21 tháng tù đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, phù hợp với quy định của pháp luật, cần chấp nhận.
Ngoài hình phạt chính, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản gì có giá trị . Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[4] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an huyện Điện Biên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[5] Về xử lý vật chứng: Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 0,06 gam Heroine và 0,79 gam Methamphetamine là vật chứng còn lại sau khi giám định.
[6] Về các vấn đề khác: Lò Văn S khai mua ma túy của một người đàn ông dân tộc Thái khoảng 26 tuổi không biết tên, địa chỉ nên cơ quan điều tra không có đủ cơ sở đề điều tra làm rõ. Vì vậy Hội đồng xét xử không đề cập việc xử lý đối với người này.
[7] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án bị cáo Lò Văn S phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự Tuyên bố bị cáo Lò Văn S phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
2. Về hình phạt: Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo: Lò Văn S 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ (28/6/2019).
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,06 gam (Không phẩy không sáu gam) Heroine và 0,79 gam (Không phẩy bảy mươi chín gam) Methamphetamine là vật chứng còn lại sau khi giám định là vật chứng của vụ án.
Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/9/2019 giữa Công an huyện Điện Biên và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo Lò Văn S phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự bị cáo Lò Văn S có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (18/10/2019).
Bản án 185/2019/HS-ST ngày 18/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 185/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về