Bản án 18/2021/HS-ST ngày 15/04/2021 về tội cố ý làm hư hỏng tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ CÔNG TÂY, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 18/2021/HS-ST NGÀY 15/04/2021 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 08/2021/TLST-HS ngày 03 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2021/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Bác A, sinh ngày 19 tháng 8 năm 1990, tại Tiền Giang; nơi cư trú: số 115/2, đường T, khu phố 3, phường 3, thị xã G, tỉnh Tiền Giang; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: lớp 10/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn D và bà: Châu Thị H; có vợ: Ngô Thị Kiều N (đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 2016; tiền án: không; tiền sự: không; bị cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 13/10/2020 “có mặt”.

- Bị hại: Chị Nguyễn Hoàng Thùy D, sinh năm 1980; nơi cư trú: ấp T, xã B, huyện G, tỉnh Tiền Giang “vắng mặt”.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Ngô Thị Kiều N, sinh năm 1989; nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện G1, tỉnh Tiền Giang “xin vắng mặt”.

- Người làm chứng:

+ Bà Nguyễn Thị Kim H, sinh năm 1958; nơi cư trú: ấp T, xã B, huyện G, tỉnh Tiền Giang “vắng mặt”.

+ Anh Nguyễn Minh N, sinh ngày 05/5/2002; nơi cư trú: số 199/A, khu phố 5, phường 2, thị xã G, tỉnh Tiền Giang “vắng mặt”.

+ Em Hồ Thành L, sinh ngày 22/3/2005; nơi cư trú: số 28, đường C12, khu phố 3, phường 2, thị xã G, tỉnh Tiền Giang “vắng mặt”.

Người giám hộ: Chị Hồ Thị Tuyết M, sinh năm 1981; nơi cư trú: số 28, đường C12, khu phố 3, phường 2, thị xã G, tỉnh Tiền Giang “vắng mặt”.

+ Em Bùi Võ Anh K, sinh ngày 12/02/2004; nơi cư trú: số 46A, đường H, khu phố 4, phường 2, thị xã G, tỉnh Tiền Giang “vắng mặt”.

Người đại diện hợp pháp: Ông Bùi Thanh H, sinh năm 1965; nơi cư trú: số 46A, đường H, khu phố 4, phường 2, thị xã G, tỉnh Tiền Giang “vắng mặt”.

+ Em Dương Quốc Đ, sinh ngày 29/5/2003; nơi cư trú: số 174, đường Đ, khu phố 3, phường 1, thị xã G, tỉnh Tiền Giang “vắng mặt”.

Người đại diện hợp pháp: Ông Dương Quốc Tiến, sinh năm 1979; nơi cư trú: số 174, đường Đ, khu phố 3, phường 1, thị xã G, tỉnh Tiền Giang “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Nội dung chính của vụ án:

Chị Nguyễn Hoàng Thùy D và anh Nguyễn Phước T chung sống như vợ chồng. Do anh T có nợ bị cáo Nguyễn Bác A số tiền 85.000.0000 đồng kéo dài nên khoảng 11 giờ ngày 19 tháng 7 năm 2020, bị cáo mua 01 chai sơn nhãn hiệu “URAI PAINTS” nhằm mục đích đến nhà chị D để đòi tiền. Bị cáo gọi điện cho Trần Minh N kêu rủ thêm người để cùng đi; N rủ thêm Hồ Thành L, Bùi Võ Anh K và Dương Quốc Đ đến gặp bị cáo. Bị cáo chở Đ bằng xe mô tô biển số 63B6-125.13 của chị Ngô Thị Kiều N (là vợ bị cáo nhưng đã ly hôn), N chở L và K bằng xe mô tô biển số 63B6-397.71 của ông Hồ Minh P (là ông ngoại L) đến nhà kho chứa hàng của chị D để tìm anh T. Do không tìm thấy anh T và chị D từ chối trả tiền nên bị cáo dùng chai sơn xịt vào phần đầu xe ô tô tải biển số 63C-105.01 của chị D và xịt vào người chị D. Tiếp theo bị cáo nhìn thấy một con dao của chị D để gần đó nên cầm lấy và có cử chỉ, lời nói đe dọa chị D. Sau đó, bị cáo lấy 01 thùng nước ngọt loại trà Hoa cúc thì chị D hỏi: “Sao lấy nước ngọt của chị?” thì bị cáo trả lời “Chừng nào bà trả tiền tôi thì tôi trừ lại”; chị D không có phản ứng gì nên bị cáo kêu những người đi chung lấy thêm thì L vào lấy thêm 01 thùng nước ngọt loại Vinut nữa và bị cáo đem 02 thùng nước ngọt trên về nhà sử dụng hết.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Gò Công Tây đã thu giữ và xử lý vật chứng như sau:

- Vật chứng do chị Nguyễn Hoàng Thùy D giao nộp:

+ 01 cái áo sơ mi tay dài màu xanh-trắng sọc xanh bằng vải nhãn hiệu “KHATOCO”, Size “S” trên ngực áo phía bên trái có túi, trên áo có dính nhiều vết sơn màu đen;

+ 01 cái bao tay bên phải bằng nhựa màu vàng, trên bao tay có dính nhiều vết sơn màu đen;

+ 01 cái nón bằng lá, dạng hình nón, có đường kính phần đáy là 40cm, trên nón có dính nhiều vết sơn màu đen;

+ 01 giấy chứng nhận kiểm định số KD0215424 của xe 63C-105.01 có thời hạn đến hết ngày 15/8/2020;

+ 01 bản sao giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 015511 của xe 63C-105.01;

+ 01 phiếu xuất kho bán hàng số BH0035 ngày 23/3/2020 của Công ty cổ phần thực phẩm và nước giải khát Thanh Bình;

+ 01 phiếu xuất kho có số ĐH000194, số HD HD00392 ngày 27/3/2020 của Công ty TNHH MTV thực phẩm và nước giải khát Nam Việt;

+ 01 con dao dài 29,5cm, cán dao bằng gỗ dài 12cm, lưỡi dao bằng kim loại màu trắng dài 17,5cm.

Quá trình điều tra xét thấy các tài liệu, vật chứng trên là tài sản hợp pháp của chị D nên đã trả lại cho chị D.

- Vật chứng do bị cáo tự nguyện giao nộp:

+ 01 xe mô tô hai bánh biển số 63B6-125.13, nhãn hiệu Honda, số loại AIRBLADE, màu sơn bạc, số máy F46E-0128892, số khung 4604DY413595;

+ 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô hai bánh 63B6-125.13, số 008977;

+ 01 bình xịt sơn phun, hiệu URAI PAINTS, thể tích 400ml, hình trụ, có chiều cao 19cm, đường kính 6,5cm; trên bình có các chữ”ATM, SPRAY, SƠN PHUN, A210 BLACK”;

Bản kết luận định giá tài sản số 70/KL-HĐĐGTTHS ngày 18 tháng 8 năm 2020 của Hội đồng định giá huyện Gò Công Tây xác định giá trị thiệt hại như sau:

+ Xe ô tô biển số 63C-105.01 bị dính sơn màu đen tại các vị trí: cửa xe bên phải, mặt trước đầu xe, cửa xe bên trái là 12.390.000 đồng.

+ 01 cái áo sơ mi tay dài màu xanh trắng sọc xanh nhãn hiệu “KHATOCO”, có dính nhiều vết sơn màu đen là 235.000 đồng.

+ 01 cái bao tay bên phải bằng nhựa màu vàng, mua mới vào tháng 06 năm 2020, trên áo có dính nhiều vết sơn màu đen là 10.000 đồng.

+ 01 cái nón bằng lá, có đường kính phần đáy là 40cm, mua mới vào tháng 05 năm 2020, có dính nhiều vết sơn màu đen là 50.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản bị hư hỏng là 12.685.000 đồng.

+ 01 thùng nước ngọt nhãn hiệu “Trà Hoa Cúc” loại thùng 24 chai do Công ty cổ phần thực phẩm nước giải khát “Thanh Bình” sản xuất là 136.000 đồng.

+ 01 thùng nước ngọt nhãn hiệu “Vinut” 24 lon do Công ty TNHH MTV thực phẩm và nước giải khát Nam Việt sản xuất là 200.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản bị cáo tự ý lấy để trừ nợ chị D là 336.000 đồng.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra bị cáo tự nguyện bồi thường số tiền 35.000.000 đồng; chị D đã nhận đủ tiền bồi thường, không có yêu cầu gì thêm và có đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

2. Truy tố:

Bản cáo trạng số 10/CT-VKSGCT ngày 03/02/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Gò Công Tây truy tố bị cáo Nguyễn Bác A về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo khoản 1 Điều 178 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Công Tây giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị:

- Về trách nhiệm hình sự: Căn cứ vào khoản 1 Điều 178, các điểm i, s, b khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự; Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Xử phạt bị cáo Nguyễn Bác A từ 09 tháng đến 01 năm 03 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm 06 tháng tính từ ngày tuyên án.

- Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận bị cáo đã bồi thường xong cho bị hại.

- Về xử lý vật chứng:

+ Trả lại cho chị Ngô Thị Kiều N 01 xe mô tô hai bánh biển số 63B6-125.13 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô hai bánh 63B6-125.13, số 008977.

+ Tịch thu tiêu hủy 01 bình xịt sơn phun, hiệu URAI PAINTS, thể tích 400 ml, hình trụ, có chiều cao 19cm, đường kính 6,5 cm; trên bình có các chữ”ATM, SPRAY, SƠN PHUN, A210 BLACK.

- Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng; bị cáo nhận thức, hối hận với hành vi sai trái của mình và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Trong suốt quá trình điều tra, truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, các văn bản được tống đạt hợp lệ và đầy đủ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Những người tham gia tố tụng trong vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

Bị hại và người làm chứng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ dự phiên tòa nhưng vắng mặt; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa. Thấy rằng, bị hại đã nhận đủ tiền bồi thường và không có yêu cầu gì thêm; lời khai của bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và những người làm chứng đã đầy đủ và có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 292, khoản 1 Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về hành vi bị truy tố và tội danh :

Tại phiên tòa cũng như quá trình điều tra bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với cáo trạng, vật chứng, lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

- Khoảng 11 giờ 40 phút ngày 19 tháng 7 năm 2020, tại nhà kho chứa hàng của chị Nguyễn Hoàng Thùy D thuộc ấp T, xã B, huyện G, tỉnh Tiền Giang bị cáo Nguyễn Bác A đã dùng chai sơn xịt vào xe ô tô tải của chị D và xịt vào người chị D làm dính sơn phần đầu xe ô tô tải biển số 63C-105.01, 01 cái áo sơ mi, 01 cái bao tay bên phải bằng nhựa và 01 cái nón lá; tổng giá trị tài sản bị hư hỏng là 12.685.000 đồng.

- Về tội danh: Từ căn cứ trên xác định bị cáo Nguyễn Bác A phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo khoản 1 Điều 178 của Bộ luật hình sự.

Như vậy, bản Cáo trạng 10/CT-VKSGCT ngày 03/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Công Tây và kết luận của đại diện Viện kiểm sát đề nghị truy tố bị cáo về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo điều khoản tương ứng nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về các tình tiết liên quan đến việc quyết định hình phạt:

- Xét tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và lỗi: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác là khách thể được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng trật tự trị an tại địa phương. Do đó, cần có mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; đã tự nguyện bồi thường thiệt hại xong; quá trình điều tra và tại phiên tòa có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bên cạnh đó bị hại cũng có đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo đó là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm i, s, b khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự nên cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Ngoài ra, bị cáo còn là người có nhân thân tốt; chưa có tiền án, tiền sự và có nơi cư trú rõ ràng, do đó Hội đồng xét xử thấy không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự cho bị cáo hưởng án treo, giao về cho gia đình và địa phương quản lý, giám sát cũng sức cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[4] Về vật chứng:

- 01 xe mô tô hai bánh biển số 63B6-125.13 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô 63B6-125.13 là tài sản hợp pháp của chị Ngô Thị Kiều N. Chị N cho bị cáo mượn xe để đưa đón con chung đi học; chị N không biết bị cáo sử dụng xe vào việc phạm tội nên căn cứ vào điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự trả lại tài sản trên cho chị N.

- 01 bình xịt sơn phun, hiệu URAI PAINTS, thể tích 400ml, hình trụ, có chiều cao 19cm, đường kính 6,5cm; trên bình có các chữ “ATM, SPRAY, SƠN PHUN, A210 BLACK” là công cụ bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự tịch thu tiêu hủy.

[5] Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về dân sự: Bị cáo đã bồi thường xong;

chị Dương không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Các vấn đề khác:

Đối với Trần Minh N, Hồ Thành L, Bùi Võ Anh K và Dương Quốc Đ đi chung với bị cáo đến nhà kho chị D, tuy nhiên hành vi chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Vì vậy, Cơ quan điều tra không xử lý hình sự mà lập hồ sơ chuyển xử lý hành chính là có cơ sở.

Bị cáo cầm lấy con dao để sẳn trong nhà kho (dao của chị D dùng để khui các thùng giấy) và có cử chỉ, lời nói đe dọa chị D. Chị D trình bày theo suy nghĩ của chị thì bị cáo đe dọa là sẽ gây thương tích. Do vậy, hành vi của bị cáo không cấu thành tội đe dọa giết người nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý là có căn cứ.

Đối với hành vi lấy 02 thùng nước ngọt của bị cáo và người chung nhóm. Chị D trình bày do chị nghĩ anh T là chồng chị còn nợ tiền bị cáo nên chị đồng ý cho lấy nước ngọt. Do đó, hành vi của bị cáo không cấu thành tội cưỡng đoạt tài sản nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý là có cơ sở.

[7] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Về phần trình bày của Kiểm sát viên tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Bác A phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 178, các điểm i, s, b khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự; Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Bác A 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Nguyễn Bác A cho Ủy ban nhân dân phường 3, thị xã G, tỉnh Tiền Giang giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú, thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 và khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự.

- Trả lại cho chị Ngô Thị Kiều N 01 (một) xe mô tô hai bánh 63B6-125.13, nhãn hiệu Honda, số loại AIRBLADE, màu sơn bạc, số máy F46E-0128892, số khung 4604DY413595 và 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô hai bánh 63B6-125.13, số 008977.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bình xịt sơn phun, hiệu URAI PAINTS, thể tích 400ml, hình trụ, có chiều cao 19cm, đường kính 6,5 cm; trên bình có các chữ”ATM, SPRAY, SƠN PHUN, A210 BLACK”.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Gò Công Tây và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Công Tây ngày 08/02/2021).

3. Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Nguyễn Bác A phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2021/HS-ST ngày 15/04/2021 về tội cố ý làm hư hỏng tài sản

Số hiệu:18/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Công Tây - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về