Bản án 18/2020/HSST ngày 30/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM TÂN, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 18/2020/HSST NGÀY 30/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 6 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hàm Tân, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 16/2020/TLST-HS ngày 28 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Lê Thị Bích T (Tên gọi khác: Không); Sinh năm: 1978, tại: Bình Thuận

Nơi đăng ký HKTT: khu phố 2, thị trấn Tân Ng, huyện Hàm T, tỉnh Bình Thuận.

Chỗ ở hiện nay: khu phố 2, thị trấn Tân Ng, huyện Hàm T, tỉnh Bình Thuận.

Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 2/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không

Con ông Lê Văn Th (chết) và bà Phạm Thị T, sinh năm 1951

Chồng: không có. Có 3 con, lớn nhất sinh năm 1994, nhỏ nhất sinh năm 2014.

- Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo Lê Thị Bích T bị bắt vào ngày 07/02/2020 đến ngày 16/02/2020 được trả tự do. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào trưa ngày 07/02/2020, T liên lạc bằng điện thoại với một người có tên T Euro (hiện không xác định được nhân thân, lai lịch) để hỏi mua 01 gói ma túy với giá tiền 1.800.000 đồng cùng với 04 nỏ (dụng cụ sử dụng ma túy đá). Một lúc sau, có một người thanh niên không rõ lai lịch điều khiển xe đi đến nhà đưa cho T 01 gói nylon có chứa ma túy và 04 nỏ rồi T đưa cho người này số tiền 2.500.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, T mang vào nhà và lấy ra một ít để sử dụng; tiếp đến T phân ra thành 01 gói nhỏ và số ma túy còn lại ở trong gói lớn. Sau đó, T cất toàn bộ số ma túy ở trong phòng T ngủ. Đến 16 giờ cùng ngày, thì bị lực lượng Công an kiểm tra bắt quả tang cùng tang vật.

Theo Kết luận giám định số 134/KLGĐ-PC09 ngày 13/02/2020 của Phòng KTHS Công an tỉnh Bình Thuận xác định:

- Mẫu M1 gửi giám định có khối lượng 0,1934 gam; là Methamphetamine.

- Mẫu M2 gửi giám định có khối lượng 2,3718 gam; là Methamphetamine.

Tổng khối lượng là 2,5652 gam Methamphetamine.

Vật chứng thu giữ trong vụ án gồm:

+ 01 điện thoại Mobell dạng nắp gập màu đen; 01 cân điện tử màu đen, kích thước 20 x 11 cm; 03 ống thủy tinh có một đầu hình cầu, dài 14cm; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm 01 bình nhựa có gắn ống thủy tinh, có đầu hình cầu gắn ống hút nhựa và 2,1557 gam methamphetamine còn lại sau giám định được niêm phong đã chuyển sang Chi cục THADS huyện Hàm Tân quản lý chờ xử lý.

+ Số tiền 5.000.000 đồng và 01 ví da màu vàng do không liên quan đến hành vi phạm tội cho nên Cơ quan điều tra Công an huyện Hàm Tân đã trả lại cho Lê Thị Bích T.

Tại cáo trạng số: 20/CT-VKS ngày 27/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân truy tố bị cáo Lê Thị Bích T, về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lê Thị Bích T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt Lê Thị Bích Tâm mức án từ 24 tháng đến 30 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 2,1557 gam methamphetamine mẫu vật còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 134 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận; 01 cân điện tử màu đen, kích thước 20 x 11cm; 03 ống thủy tinh có một đầu hình cầu, dài 14cm; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm 01 bình nhựa có gắn ống thủy tinh, có đầu hình cầu gắn ống hút nhựa.

- Trả cho bị cáo Lê Thị Bích T: 01 điện thoại Mobell dạng nắp gập màu đen.

- Tại phiên tòa, bị cáo Lê Thị Bích T khai nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng VKSND huyện Hàm Tân truy tố. Bị cáo không có ý kiến cũng như tranh luận gì đối với quan điểm của đại diện VKSND huyện Hàm Tân.

- Bị cáo Lê Thị Bích T nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về định tội và hình phạt: Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định: Vào lúc 16h00’ ngày 07/02/2020, tại nhà ở của Lê Thị Bích T thuộc khu phố 2, thị trấn Tân Ng, huyện Hàm T, tỉnh Bình Thuận, Công an huyện Hàm T phối hợp cùng Công an thị trấn Tân Ng bắt quả tang Lê Thị Bích T đang có hành vi tàng trữ 2,5652 gam Methamphetamine để sử dụng cho bản thân.

Hành vi nêu trên của bị cáo Lê Thị Bích T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân truy tố bị cáo Lê Thị Bích T về tội danh, điều luật áp dụng là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2.2] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo Lê Thị Bích T là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Bị cáo hoàn toàn nhận thức được hành vi tàng trữ ma túy bị pháp luật nghiêm cấm. Tuy nhiên, để thỏa mãn nhu cầu bản thân nên bị cáo đã vi phạm pháp luật. Xét thấy, địa bàn huyện Hàm Tân tình hình tội phạm ma túy ngày càng diễn biến phức tạp, do đó, cần phải xử lý nghiêm khắc bị cáo Lê Thị Bích T không chỉ nhằm mục đích trừng trị hành vi phạm pháp của bị cáo, cải tạo và giáo dục bị cáo trở thành công dân sống lành mạnh, có ích cho xã hội mà còn để lập lại trật tự công cộng, phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

[2.3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[2.4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn; đang mang thai nên cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm n, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[3] Về hình phạt bổ sung: Căn cứ quy định khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo không có thu nhập ổn định, điều kiện kinh tế khó khăn. Vì vậy HĐXX quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng: Đối với 2,1557 gam methamphetamine mẫu vật còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 134 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận; 01 cân điện tử màu đen, kích thước 20 x 11 cm 03 ống thủy tinh có một đầu hình cầu, dài 14cm; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm 01 bình nhựa có gắn ống thủy tinh, có đầu hình cầu gắn ống hút nhựa là vật nhà nước cấm lưu hành và không còn giá trị sử dụng cần tịch thu, tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động Mobell dạng nắp gập màu đen. Tại phiên tòa bị cáo T khai đã dùng điện thoại này để liên lạc với T Euro để trao đổi về việc mua bán ma túy trên. Đây là phương tiện phạm tội, vì vậy cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[5] Về án phí: Bị cáo Lê Thị Bích T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lê Thị Bích T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm n, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê Thị Bích T 18 (mười tám) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, nhưng được khấu trừ thời gian tạm giữ trước đó từ 07/02/2020 đến ngày 16/02/2020.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 2,1557 gam methamphetamine mẫu vật còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 134 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận; 01 cân điện tử màu đen, kích thước 20 x 11cm; 03 ống thủy tinh có một đầu hình cầu, dài 14cm; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm 01 bình nhựa có gắn ống thủy tinh, có đầu hình cầu gắn ống hút nhựa.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 (một) điện thoại Mobell dạng nắp gập màu đen.

Các vật chứng trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án huyện Hàm Tân, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/6/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hàm Tân với Chi cục thi hành án dân sự huyện Hàm Tân.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo Lê Thị Bích T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Về quyền kháng cáo: Áp dụng điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự:

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2020/HSST ngày 30/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:18/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Tân - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về