Bản án 18/2019/HS-ST ngày 22/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG LÔ, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 18/2019/HS-ST NGÀY 22/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 22 tháng 8 năm 2019, tại Hội trường Ủy ban nhân dân xã Tân Lập, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 18/2019/HSST ngày 22 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2019/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Lăng Đức T, sinh ngày 08 tháng 8 năm 1989; sinh trú quán: Thôn Đồng Quyền, xã Xuân Hòa, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lăng Đức M (đã chết) và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1962; Vợ: Hoàng Thị H, sinh năm 1989; con: Có 01 con, sinh năm 2014; tiền sự: Có một tiền sự, tại Quyết định số 22 ngày 05/3/2019, Chủ tịch UBND xã Xuân Hòa quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã thời hạn 03 tháng về hành vi vi phạm sử dụng trái phép chất ma túy; tiền án: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/4/2019 cho đến nay,(Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng hơn 08 giờ ngày 28/4/2019, Lăng Đức T lên cơn nghiện chất ma túy nên Tuấn đến khu vực cổng Trung tâm y tế huyện Lập Thạch để tìm mua ma túy sử dụng. Khi đến, T gặp một người đàn ông tên H (không rõ tuổi, địa chỉ), do biết H cũng là người nghiện chất ma túy và đã nhiều lần sử dụng ma túy cùng nhau nên T hỏi xin ma túy Heroine của H, Hải đồng ý và bảo T chờ. Khoảng 5 phút sau có Lý Văn H sinh năm 1993 ở thôn Dùng, xã Cao Phong, huyện Sông Lô cũng là người nghiện chất ma túy gặp hỏi mua 100.000đ ma túy heroine của H, H đồng ý bán và hẹn H đến khu vực nghĩa trang Gò Nang thuộc thôn Đại Thắng, xã Yên Thạch, huyện Sông Lô. Sau đó H một mình đến nghĩa trang Gò Nang trước, khoảng 20 phút sau H chở T bằng xe mô tô (không rõ BKS) của H đến cổng nghĩa trang Gò Nang, tại đây H đưa cho Tuấn 02 gói ma túy, 02 xy lanh nhựa và bảo Tuấn chờ H đi mua nước cất, Tuấn cầm theo 02 gói ma túy đi vào bên trong nghĩa trang, gặp H do H và T cũng quen biết nhau nên H hỏi xin ma túy của T, T đồng ý, sau đó T cho 02 gói ma túy vào 02 xi lanh nhựa thì bị Công an huyện Sông Lô phát hiện, T vứt 02 xi lanh có chứa chất ma túy xuống vị trí gần T đứng, ngay sau đó bị lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ: 02 xy lanh nhựa có chứa chất bột màu trắng tại nền đất nghĩa trang Gò Nang (niêm phong ký hiệu A1), thu của Tuấn 01 điện thoại di động và số tiền 100.000đ; kiểm tra trên người H thu giữ 01 điện thoại Nokia, 01 dao bấm (loại dao gọt hoa quả), số tiền 190.000đ, 02 đăng ký xe mô tô và 01 viên nhỏ màu đỏ, H khai là ma túy “Ngựa” (niêm phong ký hiệu A2).

Tại Kết luận giám định số 722 ngày 01/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc, kết luận:

- Chất bột, cục màu trắng mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy lẫn tạp chất loại Heroine có khối lượng là 0,2033g. Khối lượng Heroine có trong 0,2033g là 0,1488 gam .

- Chất bột, cục màu đỏ của mẫu ký hiệu A2 gửi giám định là ma túy lẫn tạp chất loại Methamphetamine có khối lượng là 0,0267g. Khối lượng Methamphetamine có trong 0,0267g là 0,0025 gam.

- Hoàn lại mẫu vật sau giám định A1= 0,0731g Heroine và toàn bộ bao gói (đối với Methamphetamine giám định hết mẫu).

Vật chứng vụ án gồm: 0,0731g Heroine và toàn bộ bao gói, 01 điện thoại di động Nokia và 100.000đ thu giữ của Lăng Đức T.

01chiếc điện thoại di động Nokia, 02 đăng ký xe mô tô và số tiền 190.000đ quá trình điều tra xác định là của Lý Văn H, không liên quan đến hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho H. Đối với 01 con dao bấm (loại dao gọt hoa quả) của H không liên quan đến hành vi phạm tội nhưng do hung khí có tính nguy hiểm nên Cơ quan huyện Sông Lô đã tiến hành tịch thu tiêu hủy theo quy định.

Đi với hành vi tàng trữ 0,0267g Methamphetamine của H nhằm mục đích sử dụng, do lượng ma túy nhỏ (dưới 0,1g). Nhân thân H chưa có tiền án, tiền sự về các tội ma túy nên chưa cấu thành tội phạm. Công an huyện Sông Lô đã ra quyết định xử phạt hành chính H.

Đi với nguồn gốc viên ma túy của Hùng, Hùng khai được một người đàn ông tên V (không rõ tuổi, địa chỉ cụ thể) cho vào trưa ngày 27/4/2019 tại thị trấn Lập Thạch, H mang theo mục đích để sử dụng.

Tại Cáo trạng số: 19/CT-VKS ngày 17 tháng 7 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố bị cáo Lăng Đức T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Lô luận tội đối với bị cáo Lăng Đức T, giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung bản cáo trạng truy tố bị cáo. Sau khi đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; xử phạt bị cáo Lăng Đức T từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 28/4/2019. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo và đề xuất quan điểm xử lý vật chứng vụ án.

Tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, bị cáo nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình, ăn năn hối hận, bị cáo nhất trí với bản luận tội của đại điện viện kiểm sát, không có ý kiến tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng bị cáo xin hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Sông Lô, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Lô, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, vật chứng thu giữ được cùng với các tài liệu chứng cứ khác thể hiện trong hồ sơ vụ án và phù hợp với nội dung cáo trạng đã được đại diện Viện kiểm sát công bố tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 09 giờ 50 phút ngày 28/4/2019, tại khu vực nghĩa trang Gò Nang thuộc thôn Đại Thắng, xã Yên Thạch, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc Lăng Đức T có hành vi tàng trữ trái phép 0,2033g heroine mục đích sử dụng thì bị Công an huyện Sông Lô phát hiện, lập biên bản phạm tội quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng liên quan.

Hi đồng xét xử khẳng định: Lăng Đức T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo T đã cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự: điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine…có trọng lượng từ 0,1 gam đến dưới 0,5 gam”…

Do đó bản cáo trạng số 19/CT-VKS ngày 17 tháng 7 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố bị cáo Lăng Đức T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý và nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tính độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Bị cáo có tuổi đời còn trẻ nhưng không chịu lao động, rèn luyện, tu dưỡng bản thân mà thích ăn chơi đua đòi và bị bạn bè rủ rê, lôi kéo đã sa vào con đường nghiện ngập dẫn đến hành vi phạm pháp. Bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình phạm tội. Hành vi của bị cáo không những gây mất trật tự trị an xã hội mà còn làm tệ nạn ma túy ngày càng lan rộng và phát triển mạnh hơn trong đời sống. Từ tệ nạn ma túy là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm bị cáo trước pháp luật mới có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo T là người nghiện ma túy, không có thu nhập, công việc ổn định nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền được quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[7] Về vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Đối với mẫu trả do cơ quan giám định hoàn lại sau giám định loại heroin A1= 0,0731g là chất Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại di động Nokia và số tiền 100.000đ của Lăng Đức T quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định không liên quan gì đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho Tuấn nhưng tiếp tục tạm giữ đảm bảo thi hành án.

0chiếc điện thoại di động Nokia, 02 đăng ký xe mô tô và số tiền 190.000đ Cơ quan điều tra đã trả lại cho H, 01 con dao bấm Cơ quan huyện Sông Lô đã tiến hành tịch thu tiêu hủy theo quy định nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đi với hành vi tàng trữ 0,0267g Methamphetamine của Hùng nhằm mục đích sử dụng, do lượng ma túy nhỏ (dưới 0,1g). Nhân thân H chưa có tiền án, tiền sự về các tội ma túy nên chưa cấu thành tội phạm. Công an huyện Sông Lô đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với H là đúng quy định của pháp luật.

Đi với người đàn ông tên H và tên V do T và H không biết tuổi, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra không điều tra làm rõ được.

[8] Về án phí: Bị cáo Lăng Đức T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

n cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 3, khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1.Tuyên bố bị cáo Lăng Đức T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt bị cáo Lăng Đức T 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 28/4/2019).

2. Về vật chứng: Tịch thu mẫu A1 = 0,0731 gam ma túy heroin cùng toàn bộ bao gói để thu tiêu hủy. Trả lại cho Lăng Đức T 01 (một) điện thoại di động Nokia và 100.000 (một trăm nghìn) đồng nhưng tạm giữ đảm bảo thi hành án (có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/7/2019 giữa Công an huyện Sông Lô và Chi cục thi hành án dân sự huyện Sông Lô).

3. Về án phí: Buộc bị cáo Lăng Đức T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2019/HS-ST ngày 22/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:18/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Lô - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về