Bản án 18/2019/HNGĐ-ST ngày 03/05/2019 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỎ CÀY BẮC, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 18/2019/HNGĐ-ST NGÀY 03/05/2019 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 03 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc công khai xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 349/2018/TLST - HNGĐ ngày 03 tháng 12 năm 2018 về việc “Xin ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2019/QĐXXST – HNGĐ ngày 27/3/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 17a/2019/QĐST-HNGĐ ngày 16/4/2019. Giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Lê Thị Mộng C, sinh năm 1995 (có mặt)

Nơi cư trú: ấp A, xã B, huyện M, tỉnh Bến Tre.

Bị đơn: Nguyễn Văn T, sinh năm 1986 (vắng mặt)

Nơi cư trú: ấp N, xã B, huyện M, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện cũng như trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Lê Thị Mộng C trình bày: do quen biết, tìm hiểu, chị và anh T tự nguyện tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện M, tỉnh Bến Tre vào năm 2014. Sau khi kết hôn, anh chị sống hạnh phúc thời gian đầu sau đó phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp nhau, bất đồng quan điểm, không cùng nhau phát triển kinh tế chung và anh T nhiều lần bạo hành đối với chị. Chị C nhiều lần khuyên giải và cho anh T cơ hội nhưng anh T vẫn không thay đổi. Nay không còn tình cảm, anh chị ly thân đến nay hơn 01 năm và không thể sống chung được nữa nên chị xin ly hôn với anh T.

Anh chị có một con chung tên Nguyễn Hoàng K, sinh ngày 19/7/2014 đang do chị C trực tiếp nuôi dưỡng. Hiện tại chị C làm nghề mua bán cây giống còn anh T không có nghề nghiệp ổn định, đôi lúc đi làm thuê nên chị có điều kiện tốt hơn để nuôi con. Khi ly hôn, chị C yêu cầu được trực tiếp nuôi con, yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng đến khi con chung tròn 18 tuổi.

Chị C xác định chị và anh T không có tài sản chung, không có nợ chung.

Bị đơn anh Nguyễn Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ trong suốt quá trình giải quyết vụ án nhưng vẫn vắng mặt không lý do và cũng không gửi cho Tòa án văn bản trình bày ý kiến của mình.

Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc phát biểu quan điểm: Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, những người tiến hành tố tụng và nguyên đơn đã tuân thủ pháp luật tố tụng dân sự, bị đơn không chấp hành các nghĩa vụ của mình. Về nội dung vụ án, thấy rằng mục đích hôn nhân của anh chị không đạt được, anh chị không cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc, không cùng nhau phát triển kinh tế mà còn để bạo hành xảy ra nên căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị C, cho chị và anh T ly hôn nhau. Về nuôi con chung, chị C và anh T có 01 con chung là cháu Nguyễn Hoàng K, sinh ngày 19/7/2014 hiện do chị C trực tiếp nuôi dưỡng, để đảm bảo sự phát triển bình thường của cháu K về mặt tinh thần và thể chất, đề nghị Tòa án cho chị C được tiếp tục nuôi con, buộc anh T phải cấp dưỡng nuôi con với mức cấp dưỡng 800.000 đồng/tháng. Không giải quyết về tài sản chung và nợ chung của chị C và anh T trong cùng vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định đây là vụ án hôn nhân gia đình về việc: “Xin ly hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc.

Xét thấy bị đơn Nguyễn Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để xét xử nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ vào các điều 227 và 228 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt anh T.

[2] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Lê Thị Mộng C đối với anh Nguyễn Văn T, thấy rằng:

Về hôn nhân: Chị Lê Thị Mộng C và anh Nguyễn Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, không vi phạm các điều kiện kết hôn nên hôn nhân giữa anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Chị C nhìn nhận mâu thuẫn vợ chồng xuất phát từ tính tình anh chị không hợp nhau, thường xuyên xảy ra cự cãi, anh chị không cùng nhau phát triển kinh tế và anh T nhiều lần bạo hành đối với chị. Tòa án đã ra các thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho các đương sự được biết để tạo điều kiện cho anh chị hàn gắn tình cảm nhưng anh T vẫn vắng mặt. Hội đồng xét xử thấy rằng anh chị không cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc mà còn để xảy ra bạo lực gia đình làm cho đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị C, cho chị và anh T ly hôn nhau.

Về nuôi con chung: chị Lê Thị Mộng C đang là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Hoàng K, sinh ngày 19/7/2014. Để đảm bảo sự phát triển bình thường về thể chất và tinh thần của cháu K, cần tiếp tục giao cháu K cho chị C trực tiếp nuôi dưỡng. Trên cơ sở cân nhắc mức sống tại địa phương, quy định của pháp luật và xem xét về khả năng kinh tế của anh T, buộc anh T phải cấp dưỡng nuôi cháu Nguyễn Hoàng K mỗi tháng 800.000 đồng đến khi cháu K tròn 18 tuổi là phù hợp.

Về tài sản chung và về nợ chung: chị C xác định giữa anh chị không có tài sản chung, không có nợ chung. Anh T cũng không có ý kiến về các vấn đề này nên không giải quyết trong cùng vụ án.

[3] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên được chấp nhận toàn bộ.

[4] Án phí: chị Lê Thị Mộng C phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp. Anh Nguyễn Văn T phải nộp 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội.

[1] Về hôn nhân: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Mộng C. Chị Lê Thị Mộng C được ly hôn với anh Nguyễn Văn T.

[2] Về nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con: chị Lê Thị Mộng C được quyền trực tiếp nuôi con tên Nguyễn Hoàng K, sinh ngày 19/7/2014. Buộc anh Nguyễn Văn T cấp dưỡng nuôi cháu K mỗi tháng 800.000 đồng đến khi cháu K tròn 18 tuổi với hình thức cấp dưỡng mỗi tháng 01 lần bắt đầu từ tháng 5/2019.

Sau khi ly hôn, cha, mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình và các luật khác có liên quan. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình, yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên tự thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

[3] Về tài sản chung và về nợ chung: không giải quyết trong cùng vụ án.

[4] Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm 300.000 đồng chị Lê Thị Mộng C phải chịu nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0009702 ngày 03/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỏ Cày Bắc.

Buộc anh Nguyễn Văn T phải nộp 300.000 đồng án phí cấp dưỡng.

Nguyên đơn có quyền kháng cảo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc kể từ ngày tòa án tống đạt bản án hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2019/HNGĐ-ST ngày 03/05/2019 về xin ly hôn

Số hiệu:18/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Bắc - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về