Bản án 18/2018/HSST ngày 04/06/2018 về tội hủy hoại tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KBANG -TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 18/2018/HSST NGÀY 04/06/2018 VỀ TỘI HỦY HOẠI TÀI SẢN

Ngày 04/6/2018, tại Hội trường xét xử TAND huyện Kbang, TAND huyện Kbang, tỉnh Gia Lai, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 09/2018/HS-ST ngày 10/4/2018 đối với các bị cáo:

1. Võ Thị Hoàng Y, sinh ngày 20/6/1985 tại T, An Giang; Nơi thường trú: Khóm Long Q, phường L, thị xã T, tỉnh An Giang; Chỗ ở hiện nay: Thôn 3, xã Sơn L, huyện K, tỉnh Gia Lai; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 02/12. Tiền án, tiền sự: Không. Con ông Võ Văn L và bà Nguyễn Thị H. Bị cáo sống chung như vợ chồng và có 01 con chung sinh năm 2008 với bị cáo Đào Minh H. Bị cáo hiện đang tại ngoại, áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

2. Đào Minh H, sinh ngày 05/5/1983 tại Hưng H, Thái Bình; Nơi thường trú: Thôn 3, xã S, huyện K, tỉnh Gia Lai; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 4/12. Tiền án, tiền sự: Không. Con ông Đào Ngọc H và bà Nguyễn Thị M. Bị cáo sống chung như vợ chồng và có 01 con chung sinh năm 2008 với bị cáo Võ Thị Hoàng Y. Bị cáo hiện đang tại ngoại, áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

*Người bị hại:

1. Anh Trần Ngọc T1, sinh năm 1984 (vắng mặt);

2. Chị Nguyễn Thị Thanh T2, sinh năm 1986 (vắng mặt);

Cùng địa chỉ: Thôn 3, xã S, huyện K, tỉnh Gia Lai.

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Võ Văn L, sinh năm 1961 (vắng mặt).

Địa chỉ: Tổ 1, phường A, thị xã A, tỉnh Gia Lai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15h30 ngày 28/12/2017, Võ Thị Hoàng Y nói với chồng là Đào Minh H: Bây giờ 2 vợ chồng mình đi lên nhà Trần Ngọc T1 để đòi tiền nợ. Nói xong, Y điều khiển xe mô tô biển số 81H9-2624 nhãn hiệu GLAD, màu sơn đen, trắng chở H ngồi sau đi đến tiệm sửa xe của anh T1 tại thôn 3, S. Khi đến nơi thì Y dựng xe ở ngoài sân rồi cùng H đi vào trong tiệm. Lúc này tại nhà T1 có anh Nguyễn Văn N, Đậu Đăng P, Hồ Trương H cùng trú tại thôn 3, Sơn L, đang ngồi chơi uống nước trà tại bàn đặt ở góc bên phải của nhà. Anh T1 đang ngồi sửa xe mô tô ở giữa tiệm. H đi vào cùng uống nước trà với anh P, anh Hòa, anh N, còn Y đi lại chỗ anh T1. Y hỏi anh T1: Trả cho ít tiền. T1 nghe Y hỏi vậy liền nói: Để vài hôm nữa họ đến lấy xe mới có tiền, để T1 gọi điện H lên trả. Y nghe T1 nói vậy liền nói: “Có trả không nói mẹ một tiếng”. T1 nói: Trả chứ. Y bực tức bỏ đi ra ngoài bậc thềm phía trước cửa tiệm sửa xe, Y nhìn thấy 1 T1 gỗ xẻ đã khô là T1 gỗ mà T1 làm bảng quảng cáo tiệm sửa chữa xe honda có ghi chữ “Honda T1 và số điện thoại 0931642539”. Y lấy T1 gỗ đó đi vào tiệm sửa xe, đến chỗ tủ kính nhôm đặt ở trong tiệm, bên trong tủ và trên chốc tủ, anh T1 có để một số phụ tùng xe và các hộp nhớt xe mô tô để trưng bày. Y vung T1 gỗ lên đập mạnh vào kính tủ nhôm phía trước 3 - 4 cái làm kính tủ nhôm vỡ, một số đồ đạc bên trong tủ rơi xuống nền vỡ. Y tiếp tục dùng 2 tay cầm vào 1 đầu T1 gỗ đưa lên tiếp tục đập trên đầu chốc tủ kính làm một số hộp nhớt và một chậu sứ trồng cây cảnh rơi xuống nền vỡ, nhớt chảy ra ngoài. Xong Y dùng T1 gỗ đó giơ lên cao đập mạnh xuống chốc tủ nhôm 2- 3 cái nữa làm khung tủ nhôm sụn xuống. Ngay lúc đó, Đào Minh H nhìn thấy Y đập phá tài sản của gia đình anh T1 liền đứng lên lấy cái bô xe máy đang treo ở vách tường gần đó của anh T1 cầm hai tay vào cổ ống bô đi đến chỗ tủ kính nhôm giơ lên cao đập mạnh xuống chốc tủ nhôm 2 -3 cái làm tủ nhôm sập xuống hoàn toàn. H quay lại đập tiếp 2 cái vào tủ sắt đựng đồ nghề làm bàn kê để uống nước trà, làm tủ sắt móp méo, 2 bình trà bằng sứ để ở trên chốc tủ rơi xuống vỡ nát. H đập tiếp 2 cái nữa vào 2 ghế tựa nhựa làm ghế vỡ nát. Lúc này chị Nguyễn Thị Thanh T2 là vợ của anh T1 nhìn thấy vậy hoảng sợ liền nói với T1 lấy số tiền mượn của người ta khi đêm ra trả cho Y đi. T1 lấy 700.000 đồng trả cho Y. Y hỏi T1: Còn lại 300.000 đồng nữa khi nào trả? T1 nói để 2 -3 hôm nữa trả cho. Y nói: 2 với 3 là 5 ngày, T1 nói: Ừ, vậy cho nó chắc. Rồi Y lái xe chở H ngồi sau cầm theo cái bô xe máy đi về nhà.

Sau khi nhận được tin báo, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kbang đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, thu thập chứng cứ, tạm giữ tang vật, phương tiện phạm tội gồm:

- 01 xe mô tô biển số 81H9-2624 nhãn hiệu GLAD màu trắng đen, số máy 25FMH4001035, số khung: HCUM5X001035 do Võ Thị Hoàng Y giao nộp ngày 29/12/2017. Quá trình điều tra xác định xe mô tô này là xe của ông Võ Văn L – bố ruột của Võ Thị Hoàng Y cho Y mượn sử dụng, việc Y sử dụng làm phương tiện phạm tội ông L không biết. Ngày 16/3/2018 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kbang đã ra quyết định xử lý vật chứng số 14/QĐ trả lại cho ông L.

- 01 T1 gỗ xẻ đã khô thu giữ tại hiện trường, 01 cái cổ bô xe máy có kích thước dài 52cm, đã qua sử dụng do Đào Minh H giao nộp ngày 29/12/2017.

Căn cứ vào bản kết luận định giá tài sản số: 05/KL-HĐĐG ngày 02/01/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện Kbang xác định thiệt hại số tài sản sản trên do hành vi hủy hoại là: 3.552.750 đồng. Làm hư hỏng 01 tủ sắt đựng đồ nghề trị giá 150.000 đồng. Tổng giá trị thiệt hại mà các bị cáo gây ra là 3.702.750 đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận định giá tài sản nêu trên.

Tại Bản cáo trạng số: 09/CTr-VKS ngày 09/4/2018, VKSND huyện Kbang đã truy tố các bị cáo Võ Thị Hoàng Y và Đào Minh H về tội: “Hủy hoại tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 178 BLHS năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Võ Thị Hoàng Y và Đào Minh H đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Tại phiên toà, đại diện VKSND huyện Kbang vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Võ Thị Hoàng Y và Đào Minh H phạm tội "Hủy hoại tài sản".

Đồng thời đề nghị HĐXX:

Áp dụng khoản 1 Điều 178; các điểm b, h, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 58 và Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Võ Thị Hoàng Y, đề nghị xử phạt bị cáo Y từ 12 đến 14 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 28 tháng.

Áp dụng khoản 1 Điều 178; các điểm b, h, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 và Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Đào Minh H đề nghị xử phạt bị cáo H từ 09 đến 12 tháng tù giam.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, các bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội gây ra cho người bị hại số tiền là: 3.000.000 đồng, số tiền còn là 702.750 đồng đề nghị HĐXX buộc các bị cáo liên đới bồi thường cho người bị hại.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX tuyên tịch thu tiêu hủy 01 cái cổ bô xe máy và 01 T1 gỗ khô.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí HSST và DSST theo quy định.

Các bị cáo không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát.

Các bị cáo trình bày là đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm quay về với gia đình, xã hội và trở thành công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Kbang, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kbang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều H pháp.

Tại phiên tòa hôm nay, lời khai của bị cáo Võ Thị Hoàng Y và Đào Minh H phù H với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù H với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện:

Khoảng 15h30 ngày 28/12/2017 bị cáo Võ Thị Hoàng Y và Đào Minh H đến nhà anh Trần Ngọc T1 và chị Nguyễn Thị Thanh T2 để đòi nợ tiền mà trước đó vào tháng 11/2017, vợ chồng anh T1, chị T2 có đến ở nhờ nhà bị cáo Y, H đang thuê và nợ hai bị cáo tiền ăn, tiền nhà với số tiền là 1.000.000 đồng. Sau nhiều lần bị cáo Y, H đến đòi tiền nợ mà vợ chồng anh T1, chị T2 cứ hứa hẹn, chưa trả. Theo bị cáo Y khai là bị cáo thấy anh T1 có tiền trong người và chị T2 có nói “có tiền tao cũng không trả cho mày” dẫn đến bị cáo Y bức xúc đã dùng T1 gỗ, bị cáo H dùng bô xe máy cùng đập phá tài sản của gia đình anh T1, chị T2 gây thiệt hại cho người bị hại được xác định là 3.702.750 đồng.

Về vai trò của từng bị cáo trong vụ án:

- Trong vụ án này, Võ Thị Hoàng Y là người chủ mưu và là người trực tiếp thực hiện tội phạm. Bị cáo đã dùng T1 gỗ của bị hại dùng làm bảng quảng cáo tiệm sửa chữa xe đập mạnh vào kính tủ nhôm của bị hại 3 - 4 cái làm kính tủ nhôm vỡ, một số đồ đạc bên trong tủ rơi xuống nền vỡ. Sau đó bị cáo tiếp tục đập trên đầu chốc tủ kính làm một số hộp nhớt và một chậu sứ trồng cây cảnh rơi xuống nền vỡ, nhớt chảy ra ngoài và dùng T1 gỗ đó đập mạnh vào chốc tủ nhôm 2-3 cái nữa làm khung tủ nhôm sụn xuống. Vì vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm chính và chịu mức hình phạt nghiêm khắc nhất so với bị cáo khác trong vụ án.

- Bị cáo Đào Minh H, là đồng phạm tích cực thực hiện hành vi phạm tội. Ngay khi nhìn thấy bị cáo Y đập phá tài sản của gia đình bị hại, bị cáo liền đứng lên lấy cái bô xe máy đang treo ở vách tường gần đó của bị hại đập mạnh xuống chốc tủ nhôm 2 -3 cái làm tủ nhôm sập xuống hoàn toàn. Sau đó bị cáo tiếp tục đập 2 cái vào tủ sắt đựng đồ nghề làm bàn kê để uống nước trà, làm tủ sắt móp méo, 2 bình trà bằng sứ để ở trên chốc tủ rơi xuống vỡ nát. Bị cáo tiếp tục đập 2 cái vào 2 ghế tựa nhựa làm ghế vỡ nát. Do đó HĐXX cũng phải xử lý nghiêm đối với bị cáo.

Do đó, hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội "Hủy hoại tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 178 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với từng bị cáo bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo H có nhân thân xấu, ngày 09/11/2005 bị Tòa án nhân dân huyện Kbang xử phạt về tội trộm cắp tài sản, bị cáo đã được xóa án tích.

Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên toà các bị cáo đã thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải; các bị cáo đã tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả cho người bị hại số tiền là 3.000.000 đồng; các bị cáo phạm tội gây thiệt hại không lớn; các bị cáo phạm tội có một phần lỗi của người bị hại do người bị hại nợ tiền đã lâu, các bị cáo đòi nhiều lần mà chưa trả được. Đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Riêng bị cáo Y phạm tội lần đầu và thuộc trường H ít nghiêm trọng là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do vậy, HĐXX cũng đã cân nhắc áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt đối với các bị cáo.

Qua ý kiến luận tội của đại diện VKS đã đề nghị hướng xử lý vụ án. Sau khi xem xét nhân thân của bị cáo, đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, cũng như xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS đối với bị cáo, HĐXX thấy rằng: Bị cáo Võ Thị Hoàng Y và Đào Minh H đều là người đã thành niên có đầy đủ năng lực và sức khỏe để nhận thức hành vi đập phá tài sản của người khác là vi phạm pháp luật. Song chỉ vì bực tức người bị hại chưa có tiền trả nợ mà các bị cáo đã có hành vi hủy hoại tài sản, gây thiệt hại về tài sản cho người bị hại như đã nói ở trên.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an trên địa bàn, thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Vì vậy, cần thiết phải xử phạt nghiêm khắc với các bị cáo mới có tác dụng phòng ngừa chung.

Xét bị cáo Y và bị cáo H tuy chưa đăng ký kết hôn nhưng đã chung sống với nhau như vợ chồng hơn 10 năm và đã có với nhau 01 con chung là con gái sinh năm 2008, đang ở độ tuổi cần sự chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng của người mẹ hơn và bị cáo Y có nhân thân tốt, đây là lần đầu bị cáo phạm tội, chưa có tiền án, tiền sự và bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, thấy không cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội, để bị cáo được chăm sóc con, nên HĐXX cũng đã xem xét áp dụng Điều 65 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo để cho bị cáo được hưởng án treo, có thời gian thử thách là đã đủ tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Đối với bị cáo H cần xử phạt hình phạt tù giam nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra ngoài cộng đồng xã hội một thời gian để có điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người lương thiện và nâng cao hiệu quả phòng ngừa chung.

Liên quan trong vụ án có ông Võ Văn L là chủ sở hữu chiếc xe mang biển số 81H9 – 2624 do hai bị cáo sử dụng làm phương tiện đến nhà bị hại để phạm tội. Ông L cho bị cáo Y mượn chiếc xe sử dụng, việc bị cáo Y sử dụng làm phương tiện phạm tội ông L không biết, Cơ quan Điều tra không xử lý và trả lại chiếc xe cho ông L là đúng quy định. Vì vậy, trong vụ án này HĐXX xem xét ông với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra các bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội gây ra cho người bị hại số tiền là: 3.000.000 đồng, số tiền 702.750 đồng còn lại, lời khai trong hồ sơ của người bị hại thể hiện họ yêu cầu các bị cáo phải tiếp tục bồi thường nên HĐXX buộc các bị cáo phải liên đới bồi thường cho người bị hại số tiền trên.

Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 cái cổ bô xe máy có chiều dài 52cm và 01 T1 gỗ khô có chiều dài 93cm của gia đình người bị hại, lời khai trong hồ sơ của người bị hại thể hiện họ không có yêu cầu nhận lại nên cần tịch thu tiêu hủy.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí HSST và DSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Võ Thị Hoàng Y và Đào Minh H, phạm tội: “hủy hoại tài sản".

Áp dụng khoản 1 Điều 178, Điều 58, Điều 65; các điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Võ Thị Hoàng Y.

Áp dụng khoản 1 Điều 178, Điều 38; Điều 58; các điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Đào Minh H.

Xử phạt bị cáo Võ Thị Hoàng Y 12 (mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (hai mươi tư) tháng tính từ ngày tuyên án (ngày 04/6/2018).

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Sơn Lang, huyện Kbang, tỉnh Gia Lai giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối H với Ủy ban nhân dân xã Sơn Lang trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường H bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

Xử phạt bị cáo Đào Minh H 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; các Điều 584, 585 và 587 Bộ luật Dân sự năm 2015:

Buộc bị cáo Võ Thị Hoàng Y và bị cáo Đào Minh H phải liên đới bồi thường cho người bị hại anh Trần Ngọc T1 và chị Nguyễn Thị Thanh T2 số tiền là 702.750 đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự (LTHADS) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, và 9 LTHADS; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 LTHADS.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Tuyên tịch thu tiêu hủy đối với:

- 01 (một) cái cổ bô xe máy có chiều dài 52cm, phần đầu cổ bô có đường kính 03cm, phần rộng nhất nối với thân bô xe máy có đường kính 5cm.

- 01 (một) T1 gỗ khô có chiều dài 93cm, phần rộng nhất là 13cm, phần hẹp nhất là 05cm, độ dày 1,5cm, trên T1 gỗ có ghi chữ “HONDA T1” “ĐT 0931642539”.

(Đặc điểm cụ thể vật chứng nói trên theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/4/2018 giữa Công an huyện Kbang và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kbang).

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

Buộc các bị cáo Võ Thị Hoàng Y và Đào Minh H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Buộc các bị cáo Võ Thị Hoàng Y và Đào Minh H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo đề nghị TAND tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm. Thời hạn trên đối với người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

329
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2018/HSST ngày 04/06/2018 về tội hủy hoại tài sản

Số hiệu:18/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện KBang - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về