Bản án 18/2018/HNGĐ-ST ngày 28/05/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH LƯU, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 18/2018/HNGĐ-ST NGÀY 28/05/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 28 tháng 5 năm 2018 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện QL, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 35/2018/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 02 năm 2018 về “Xin ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 53/2018/QĐXXST-DS ngày 10 tháng 5 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hồ Thị H, sinh năm 1993. – Có mặt. Nơi cư trú: Thôn TL, xã AH, huyện QL, tỉnh Nghệ An.

2. Bị đơn: Anh Vũ Duy C, sinh năm 1989. – Vắng mặt. Nơi cư trú: Thôn TL, xã AH, huyện QL, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai, biên bản kiểm tra việc giao nộp, tiếp cân công khai chứng cứ và biên bản hoà giải và tại phiên tòa nguyên đơn chị Hồ Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Hồ Thị H và anh Vũ Duy C đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã AH, huyện QL, tỉnh Nghệ An vào ngày 22/01/2014 hoàn toàn tự nguyện. Sau một thời gian chung sống thì giữa chị, chồng cùng với mẹ chồng xẩy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân vợ chồng mâu thuẫn do tính tình không hợp, anh C chửi bới, xúc phạm tới chị, đuổi chị ra khỏi nhà, mẹ chồng đánh đập chị. Chị và anh C sống ly thân hơn một năm nay, trong thời gian sống ly thân hai người không quan tâm gì đến nhau. Nay chị H xác định tình cảm không còn, vợ chồng không thể tiếp tục chung sống với nhau nữa nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Vũ Duy C.

Về con: Chị Hồ Thị H trình bày vợ chồng có 01 con chung là Vũ Thị AT, sinh ngày 20/02/2015, hiện con đang ở với chị H. Khi ly hôn, nguyện vọng của chị yêu C Tòa giao con chung cho chị nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục, chị không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai bị đơn anh Vũ Duy C trình bày: Anh và chị Hồ Thị H đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã AH, huyện QL, tỉnh Nghệ An vào ngày 22/01/2014 hoàn toàn tự nguyện. Vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng đến tháng 10/2015 chị H cùng con bỏ về nhà mẹ đẻ ở cho đến nay. Ngày 13/02/2016 đến ngày 11/02/2018 chị giao con cho anh C nuôi. Ngày 11/02/2018 chị mang con về nhà mình nuôi cho đến nay, anh C đến thăm con nhưng chị H không cho đồng thời cùng gia đình chửi bới, xúc phạm và cầm Dao đe dọa anh C. Anh C mong muốn vợ chồng đoàn tụ, anh không muốn ly hôn.

Về con: Anh và chị H có 01 con chung là Vũ Thị AT, sinh ngày 20/02/2015, hiện con đang ở với chị H. Nếu Tòa án cho ly hôn, nguyện vọng của anh yêu cầu Tòa giao con chung cho anh nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục, anh không yêu cầu chị H đóng góp cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản: Anh C không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo biên bản xác minh ngày 13/3/2018 bà Trần Thị L, chủ tịch hội phụ nữ xã AH cho biết: Anh C và chị H kết hôn năm 2014 là tự nguyện, quá trình chung sống cả hai vào miền nam làm ăn một thời gian thì về cùng ở chung với gia đình anh C. Vợ chồng mâu thuẫn với nhau từ năm 2015 đến nay. Anh C và chị H đều đảm bảo nuôi con, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng, kể từ thời điểm Tòa án thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Đối với Thẩm phán đã thực hiện đúng quy định tại các điều 28, 35 và Điều 48 của Bộ luật tố tụng dân sự; thu thập chứng cứ bảo đảm đúng quy định; thông báo về việc thụ lý vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp và tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự đảm bảo; về thời hạn chuẩn bị xét xử bảo đảm đúng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 203 của Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử, Thư ký đã thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về thủ tục, trình tự phiên tòa xét xử sơ thẩm. Nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật và thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 70, Điều 71 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn anh Vũ Duy C không chấp hành đúng quy định tại các Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự; vắng mặt trong các phiên họp và hòa giải tại Tòa án cũng như tại phiên tòa lần thứ nhất ngày 24/4/2018 và tại phiên tòa ngày hôm nay làm ảnh hưởng đến tiến độ giải quyết vụ án.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; áp dụng khoản 1 Điều 51, Điều 56, 58, 81, 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Hồ Thị H, cho chị H được ly hôn với anh Vũ Duy C.

Về con chung: Giao con chung là Vũ Thị AT, sinh ngày 20/02/2015 cho chị Hồ Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, và giáo dục. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh C do chị H không yêu cầu. Anh C có quyền và nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về tài sản chị Hồ Thị H và anh Vũ Duy C không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tòa án đã thực hiện tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng cho anh Vũ Duy C và người thân trong gia đình của anh C. Quá trình giải quyết vụ án, anh C không có yêu C phản tố. Tại phiên tòa lần thứ nhất ngày 24/4/2018, anh C vắng mặt không có lý do, Hội đồng xét xử đã hoãn phiên tòa và thực hiện việc tống đạt Quyết định hoãn phiên tòa cho anh C theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay bị đơn anh Vũ Duy C vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh C.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Hồ Thị H và anh Vũ Duy C kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký vào ngày 22/01/2014 tại Ủy ban nhân dân xã AH, huyện QL, tỉnh Nghệ An. Quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh C là hợp pháp. Quá trình sống chung, giữa chị H và anh C xẩy ra mâu thuẫn, do tính tình không hợp, anh C chửi bới, xúc phạm tới chị, đuổi chị ra khỏi nhà, vợ chồng đã sống ly thân cắt đứt mọi quan hệ từ năm 2015 đến nay. Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thông báo cho anh C đến Tòa án để tham gia hòa giải quan hệ hôn nhân với chị H, mục đích để anh chị hàn gắn nhưng anh C không đến Tòa án để tham gia hòa giải, điều đó chứng tỏ anh C có ý thức bỏ mặc, không muốn hàn gắn tình cảm với chị H. Do đó có căn cứ để xác định mâu thuẫn tình cảm vợ chồng giữa chị H và anh C đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H.

[3] Về con chung: Chị Hồ Thị H và anh Vũ Duy C có 01 con chung là Vũ Thị AT, sinh ngày 20/02/2015. Hiện nay con đang do chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, để bảo đảm sự ổn định trong cuộc sống của con nên cần để cho chị H được tiếp tục nuôi con là phù hợp.

[4] Về cấp dưỡng: Xét thấy, chị H có công việc làm, thu nhập ổn định, chị không yêu cầu anh C phải cấp dưỡng nuôi con là sự tự nguyện nên chấp nhận theo yêu cầu của chị H

[5] Về tài sản: Chị Hồ Thị H và anh Vũ Duy C không yêu C giải quyết.

[6] Về án phí: Chị Hồ Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ khoản 1 Điều 51, 56, 58, 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Hồ Thị H; Chị Hồ Thị H được ly hôn với anh Vũ Duy C.

2. Về con chung: Giao con chung Vũ Thị AT, sinh ngày 20/02/2015 cho chị Hồ Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh C do chị H không yêu cầu. Anh Vũ Duy C có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về tài sản: Chị Hồ Thị H và anh Vũ Duy C không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Chị Hồ Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000 đồng chị đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0001540, ngày 27/02/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện QL.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu C thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2018/HNGĐ-ST ngày 28/05/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:18/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Lưu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về