Bản án 180/2020/HS-ST ngày 26/05/2020 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 180/2020/HS-ST NGÀY 26/05/2020 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 5 năm 2020 tại Hội trường A trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 145/2020/HSST ngày 07 tháng 4 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 158/2020/QĐXXST-HS ngày 07/5/2020 đối với các bị cáo:

1.Nguyễn Minh H (tên gọi khác: Hugo), sinh năm 1995 tại tỉnh Bình Dương; thường trú: 10/1 khu phố L1, phường A, Thành phố K, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Minh H, sinh năm 1968 và con bà Võ Thị Diệu H, sinh năm 1972; bị cáo có 02 anh em ruột, bị cáo là thứ 2; tiền sự, tiền án: Không có.

Tiền sự: Ngày 31/7/2018, Ủy ban nhân dân thị xã Dĩ An (nay là Thành phố Dĩ An), tỉnh Bình Dương ra quyết định xử phạt 15.000.000 đồng về hành vi tàng trữ công cụ hỗ trợ mà không có giấy phép, theo quyết định số 3168, Tiền án: Ngày 06/8/2013, Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An (nay là Thành phố Dĩ An), tỉnh Bình Dương xử phạt 7 năm tù về tội “Cướp tài sản”, theo bản án số 301, ngày 10/11/2017 chấp hành xong hình phạt tù.

Bị cáo bị bắt giam ngày 3/12/2019, có mặt.

2. Phạm Thị Ngọc B, sinh năm 1997 tại tỉnh Kiên Giang; thường trú: Tổ 6 ấp T, xã L, huyện Q, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; con ông Danh N (đã chết) và con bà Phạm Thị C (đã chết) bị cáo có 02 con sinh năm 2014 và năm 2017; tiền sự, tiền án: Không có.

Bị cáo bị bắt giam ngày 22/12/2019, có mặt.

- Bị hại : Chị Trần Thị H1, sinh năm 1991; thường trú: Thôn T, xã H, huyện A, tỉnh Bình Định, vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1.Anh Nguyễn Minh H2, sinh năm 1990; địa chỉ: 10/1 khu phố L1, phường A, Thành phố K, tỉnh Bình Dương, có mặt.

2.Anh Trần Hoàng H3, sinh năm 1987; địa chỉ: Khương Trung, quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội, vắng mặt.

- Người chứng kiến : Anh Tạ Văn T, sinh năm 1984, vắng mặt.

-Người làm chứng:

1. Chị Ngọ Thị N;

2. Chị Cao Thị Mai T1, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 07 giờ 30 phút, ngày 19/9/2019, chị Trần Thị H1 đứng mua thịt heo (lợn) tại địa chỉ 3/17 đường số 5 khu phố Nhị Đồng 1, phường Dĩ An, Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương, túi quần bên trái chị H1 để điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A80 màu đen. Thời điểm này bị cáo Nguyễn Minh H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Exciter 150, biển số 29 E2 - XXXX  chở bị cáo Phạm Thị Ngọc B ngồi phía sau đi ngang qua chỗ chị H1, H, B nhìn thấy điện thoại của chị H1. H hỏi B “có làm không” B trả lời “làm thì làm”. H điều khiển xe mô tô chở B quay ngược lại áp sát vào chị H1 để B ngồi phía sau dùng tay phải giật điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A80 màu đen trong túi quần chị H1, sau đó cả hai tăng ga tẩu thoát. Chị H1 truy hô “Cướp, cướp” và chạy bộ đuổi theo khoảng 200 m, thời điểm này người dân đi đường cùng truy đuổi H, B điều khiển xe ngã xuống đường, điện thoại chiếm đoạt của chị H1 rơi xuống đường. Người dân đi đường bắt giữ H, B giao Công an phường Dĩ An xử lý. Thời điểm này chị H1 đến nhận điện thoại đi về, do chưa xác định được bị hại nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Dĩ An đã trả tự do cho B và H. Ngày 20/09/2019 chị H1 đến Công an Thành phố Dĩ An trình báo sự việc bị cướp giật điện thoại.

Vật chứng thu giữ:

+ 01 xe mô tô hiệu Exciter 150 màu xanh xám, biển số 29E2-XXXX ; 01 điện thoại di động Samsung Galaxy A80 màu đen.

Kết luật định giá tài sản số 194/BB.ĐG ngày 25/9/2019 của Hội đồng định giá Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A80 màu đen trị giá 13.000.000 đồng.

Vật chứng đã xử lý: Quá trình điều tra đã trả cho chị Trần Thị H1 điện thoại di động bị chiếm đoạt; trả xe mô tô nhãn hiệu Exciter 150 màu xanh xám, biển số 29E2-XXXX  cho anh Nguyễn Minh H2, do anh H2 cho H mượn xe không biết H sử dụng vào việc phạm tội.

Cáo trạng số 178/CT-VKS - DA ngày 07/4/2020, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Minh H về tội “Cướp giật tài sản”, theo quy định điểm d, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự, bị cáo Phạm Thị Ngọc B về tội “Cướp giật tài sản”, theo quy định điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân các bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm d, i khoản 2 Điều 171, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Minh H từ 4 năm đến 4 năm 6 tháng tù.

Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phạm Thị Ngọc B từ 3 năm đến 3 năm 6 tháng tù.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Nguyễn Minh H2 không có ý kiến gì.

Bị cáo H, B không bào chữa, tranh luận cho hành vi phạm tội, trước khi Hội đồng xét xử nghị án các bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo H, B xin xem xét giảm nhẹ mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Căn cứ xác định các bị cáo phạm tội: Bị cáo Nguyễn Minh H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Exciter 150, biển số 29E2-XXXX  là nguồn nguy hiểm cao độ chở bị cáo Phạm Thị Ngọc B nhanh chóng giật điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy A80 màu đen trị giá 13.000.000 đồng của chị Trần Thị H1 vào ngày 19/9/2019, bị cáo H đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích lại thực hiện hành vi phạm tội mới về tội phạm rất nghiêm trọng. Do vậy, hành vi trên của bị cáo H đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản” quy định điểm d, i (dùng thủ đoạn nguy hiểm; tái phạm nguy hiểm) khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự, bị cáo B quy định điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng số 178/ CT – VKS ngày 07/4/2020 của Viện kiểm sát Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo cũng như bản luận tội của Kiểm sát viên đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo H, B không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản thiệt hại đã được thu hồi trả bị hại. Tình tiết trên được quy định điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo H có nhân thân rất xấu, thể hiện việc đã bị xử phạt tù về hành vi “Cướp tài sản”, lần phạm tội này của bị cáo thể hiện sự không hướng thiện của bản thân cũng như việc chấp hành pháp luật. Bị cáo B có nhân thân tốt thể hiện không có tiền án, tiền sự, bị cáo nhất thời phạm tội.

[2] Về tính chất mức độ tội phạm: Bị cáo H, B phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng do có khung hình phạt đến 10 năm tù, các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện phạm tội một cách cố ý. Hành vi phạm tội của các bị cáo ngoài việc xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe, tài sản hợp pháp của bị hại Trần Thị H1 được pháp luật bảo vệ, mà còn gây mất trật tự trị an và an toàn cho xã hội tại địa phương. Do vậy, cần xử phạt tù có thời hạn đối với các bị cáo để các bị cáo tự cải tạo sau này không vi phạm nữa, cũng như việc răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Trong vụ án có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn, bị cáo H là người rủ bị cáo B phạm tội, bị cáo H, B cùng tham gia với vai trò người thực hành, bị cáo H có hai tình tiết định khung hình phạt, do vậy mức hình phạt bị cáo Hưng cao hơn so với bị cáo B.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Trần Thị H đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu bồi thường gì khác. Do vậy, Hội đồng xét xử không xét.

[5] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đưa ra tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân và mức hình phạt đối với các bị cáo phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử do vậy được chấp nhận.

[6] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Án phí sơ thẩm: Bị cáo H, B phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Minh H, Phạm Thị Ngọc B phạm tội “Cướp giật tài sản”.

1.1 Căn cứ vào điểm d, i khoản 2 Điều 171, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Điều 58 Bộ luật hình sự .

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh H 04 (bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/12/2019.

1.2 Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật hình sự .

Xử phạt bị cáo Phạm Thị Ngọc B 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 22/12/2019.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự ; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14. Các bị cáo Nguyễn Minh H, Phạm Thị Ngọc B mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

277
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 180/2020/HS-ST ngày 26/05/2020 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:180/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về