TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 178/2017/HSST NGÀY 14/08/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 14 tháng 8 năm 2017 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên toà xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 166/2017/HSST ngày 27 tháng 7 năm 2017 đối với bị cáo:
Nguyễn Thị Thanh T, giới tính: nữ; sinh năm: 1974, tại: Thành phố Hồ Chí Minh; HKTT: số 61 đường M, Phường B, quận G, thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: may gia công; trình độ văn hóa: 9/12; Con ông Nguyễn Thanh S và bà Phạm Thị Thu H; hoàn cảnh gia đình: Có chồng Huỳnh Mạnh H, sinh năm 1979 và có 02 con lớn sinh năm 2001, nhỏ sinh năm 2005; tiền sự: không; tiền án: không; bị bắt tạm giam ngày: 08/11/2016; (Có mặt).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: 1/- Ông Vũ Trung Q, sinh năm 1982; Trú tại: H206 Lô R16, KP, phường P, Quận Y, Thành phố Hồ chí Minh (Vắng mặt); 2/- Nguyễn Thanh D, sinh năm: 1985; trú tại: A6/174 ấp 1 xã N, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).
NHẬN THẤY
Bị cáo Nguyễn Thị Thanh T bị Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Khoảng 20h30 ngày 07/11/2016, Nguyễn Thị Thanh T một mình sử dụng xe máy biển số 52Z7-0800 đến khu vực ngã tư An Sương, Quận 12 mua 03 gói nylon chứa heroin của một thanh niên (không rõ lai lịch) với giá 600.000 đồng. T cất số heroin mới mua vào túi áo rồi chạy xe về nhà và giấu số heroin này vào hộc bàn máy may trong nhà. Đến khoảng 15h15 ngày 08/11/2016, khi T đang ở nhà thì có 01 thanh niên sử dụng số điện thoại di động 01204990545 gọi vào số máy di động của T số 01664798776 và hỏi mua heroin với số tiền 900.000 đồng, T đồng ý và hẹn gặp nhau tại trước cổng trường Lê Văn Thọ trên đường Phạm Văn Chiêu, Phường 13, quận Gò Vấp. Sau đó, T lấy 03 gói nylon chứa heroin đã mua vào ngày 07/11/2016 đang cất giấu trong hộc bàn máy may bỏ vào trong túi áo khoác T đang mặc rồi chạy xe gắn máy biển số 52Z7-0800 đến nơi hẹn. Khi đang đến trước số nhà số 505, đường Phạm Văn Chiêu, phường 13, quận Gò Vấp thì bị Công an bắt và thu giữ những vật chứng lập biên bản phạm tội quả tang.
Vật chứng thu giữ gồm:
- 03 gói nylon bên trong có chứa chất bột màu trắng đã được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Thị Thanh T và hình dấu của Công an Phường 13, quận Gò Vấp.
Tại bản kết luận giám định số 1960/KLGĐ-H ngày 13/12/2016 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:
Chất bột màu trắng màu trắng trong 03 gói nylon được niêm phong có chữ ký ghi tên Nguyễn Thị Thanh T và hình dấu Công an Phường 13, quận Gò Vấp gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn có khối lượng 0,6811 gram là loại Herôin.
- 01 điện thoại di động hiệu mobilstar, số imei: 352233021104923, số sim 01664798776 và 01267577275.
- Số tiền 400.000 đồng.
- 01 xe máy gắn biển số 52Z7-0800, số máy M9BCD-020606, số khung D-020606. Qua xác minh chiếc xe trên do ông Vũ Trung Q, thường trú: H206 Lô R16, KP, phường P, Quận Y là chủ sở hữu. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại Công an phường P, Quận Y nhưng không có ai tên Vũ Trung Q thường trú tạiđịa chỉ trên. Nguyễn Thị Thanh T khai mượn xe của Nguyễn Thanh D (em trai của T) làm phương tiện đi lại. Nguyễn Thanh D khai vào tháng 8/2012 D mua chiếc xe trên với giá 9.000.000 đồng của anh Vũ Trung Q, khi mua chỉ nhận xe không làm giấy tờ mua bán, không làm thủ tục sang tên xe, đến 2014 D cho T mượn chiếc xe trên để làm phương tiện đi lại, D không biết việc T dùng xe để đi mua ma túy. Cơ
quan điều tra đã tiến hành đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng hiện nay vẫn chưa có ai đến làm thủ tục nhận lại xe.
Công an quận Gò Vấp đã nhập kho vật chứng theo Lệnh nhập kho vật chứng số: 435/LNK ngày 10/11/2016 và phiếu nhập kho vật chứng số 421/PNK ngày 18/11/2016.
Đối với thanh niên đã bán may túy cho T (chưa rõ lai lịch) khi xác định được sẽ xử lý sau.
Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Gò Vấp, Nguyễn Thị Thanh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.
Tại bản cáo trạng số 109A/CTr-VKS, ngày 25/7/2017 của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố Nguyễn Thị Thanh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khỏan 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà Đại diện viện kiểm sát sau khi luận tội và đưa ra quan điểm xét xử đã đề nghị:
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thanh T từ 02 năm đến 02 năm 6 tháng tù.
- Phạt bổ sung bị cáo 5.000.000 đồng.
- Tịch thu và tiêu hủy toàn bộ lượng ma túy thu giữ.
- Tịch thu sung quỹ nhà nước điện thoại di động hiệu mobilstar, số imei: 352233021104923, có số sim 01664798776 và 01267577275.
- Tịch thu sung quỹ nhà nước chiếc xe máy biển số 52Z7-0800, số máy M9BCD-020606, số khung D-020606.
- Trả lại cho bị cáo 400.000 đồng
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận và trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
XÉT THẤY
Tại Phiên toà hôm nay bị cáo Nguyễn Thị Thanh T đã khai nhận hành vi mua bán trái phép chất ma tuý như nội dung bản cáo trạng đã nêu.
Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với bản kết luận điều tra của Công an quận Gò Vấp, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, biên bản phạm pháp quả tang và tang vật thu giữ, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án. Đối chiếu với các Điều luật tương ứng do Bộ luật Hình sự quy định. Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Nguyễn Thị Thanh T đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại Điều 194 của Bộ luật Hình sự.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ, đã xâm phạm đến sự quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, đã xâm phạm và làm ảnh hưởng đến chính sách quản lý kinh tế, an ninh quốc gia, gây mất trật tự trị an xã hội.
Mặc dù bị cáo nhận thức được việc tàng trữ, vận chuyển, sử dụng và mua bán trái phép chất ma túy…. là vi phạm pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm và nếu vi phạm sẽ bị trừng trị nghiêm khắc, nhưng bị cáo vẫn ngang nhiên tàng trữ trái phép chất ma tuý để bán cho các con nghiện, bất chấp những quy định của pháp luật, bất chấp mọi hậu quả xảy ra kể cả việc trừng trị của pháp luật. Vì vậy, cần thiết phải có mức hình phạt thật nghiêm khắc đối với bị cáo và cần thiết phải có một khoảng thời gian dài cách ly bị cáo ra khỏi xã hội nhằm tạo điều kiện cho bị cáo học tập phấn đấu trở thành người tốt hơn sau này biết tôn trọng pháp luật đồng thời cũng nhằm răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.
Tuy nhiên khi lượng hình cần xem xét các tình tiết, tại Cơ quan điều tra cũng như qua diễn biến phiên toà hôm nay bị cáo đã thật thà khai báo thành khẩn nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải, gia đình bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo mà lẽ ra bị cáo phải chịu.
Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 194 của Bộ luật Hình sự, tại phiên tòa hôm nay Viện kiểm sát đề nghị phạt bị cáo 5.000.000 đồng. Hội đồng xét xử nhận thấy bị cáo phạm tội lần đầu chưa thu lợi từ việc bán ma túy, xét tính chất vụ án và hoàn cảnh của bị cáo nên quyết định miễn phạt cho bị cáo.
Về xử lý vật chứng:
- Đối với 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Thị Thanh T và hình dấu Công an Phường 13, quận Gò Vấp bên trong có 03 gói nylon có chứa chất bột màu trắng, qua giám định tại phòng PC.54 CATP Hồ Chí Minh là ma túy ở thể rắn có khối lượng 0,6811 gram loại herôin là vật Nhà nước cấm lưu hành và sử dụng Hội đồng xét xử quyết định tịch thu và tiêu huỷ.
- Đối với chiếc xe gắn máy biển số 52Z7 – 0800 số máy M9BCD-020606, số khung D-020606. Qua xác minh chiếc xe trên do ông Vũ Trung Q, thường trú: H206 Lô R16, KP, phường P, Quận Y là chủ sở hữu. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại Công an phường P, Quận Y nhưng không có ai tên Vũ Trung Q thường trú tại địa chỉ trên. Nguyễn Thị Thanh T khai mượn xe của Nguyễn Thanh D (em trai của T) làm phương tiện đi lại. Nguyễn Thanh D khai vào tháng 8/2012 D mua chiếc xe trên với giá 9.000.000 đồng của anh Vũ Trung Q, khi mua chỉ nhận xe không làm giấy tờ mua bán, không làm thủ tục sang tên xe, đến 2014 D cho T mượn chiếc xe trên để làm phương tiện đi lại, D không biết việc T dùng xe để đi mua ma túy. Cơ quan điều tra đã tiến hành đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng hiện nay vẫn chưa có ai đến làm thủ tục nhận lại xe. Xét thấy đã quá thời hạn quy định của pháp luật và xe không có nguồn gốc rõ ràng Hội đồng xét xử quyết định tịch thu sung quỹ nhà nước.
- Đối với 01 điện thoại di động di động hiệu mobilstar, có số imei: 352233021104923, có số sim 01664798776 và 01267577275 là phương tiện bị cáo dùng để liên lạc thực hiện hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử quyết định tịch thu sung quỹ nhà nước.
- Đối với 400.000 đồng là tiền riêng của bị cáo không liên quan đến vụ án Hội đồng xét xử quyết định trả lại cho bị cáo.
Đối với người thanh niên bán ma túy cho T do không xác định được nhân thân lai lịch nên không có cơ sở xử lý, khi nào xác định được sẽ xử lý sau.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Thanh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;
Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thanh T 02 (Hai) năm tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày 08/11/2016.
- Tịch thu và tiêu hủy 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Thị Thanh T và hình dấu Công an Phường 13, quận Gò Vấp bên trong có 03 gói nylon có chứa chất bột màu trắng, qua giám định tại phòng PC.54 CATP Hồ Chí Minh là ma túy ở thể rắn có khối lượng 0,6811 gram loại herôin.
- Tịch thu sung quỹ nhà nước điện thoại di động hiệu mobilstar, số imei: 352233021104923, có số sim 01664798776 và 01267577275.
- Tịch thu sung quỹ nhà nước chiếc xe máy biển số 52Z7- 0800, số máy M9BCD-020606, số khung D-020606.
- Trả lại cho bị cáo số tiền 400.000 (bốn trăm ngàn) đồng.
(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 421/PNK, ngày 18/11/2016 của Công an quận Gò Vấp).
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày được tính kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn