Bản án 176/2020/HS-ST ngày 06/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 176/2020/HS-ST NGÀY 06/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 11 năm 2020 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 184/2020/TLST-HS ngày 15/10/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 210/2020/QĐXXST-HS ngày 23/10/2020 đối với bị cáo:

Tống Hữu T; Giới tính: Nam; Sinh ngày 28 tháng 3 năm 1988 tại thành phố Hồ Chí Minh; trú tại : phường 10, quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh; Quoác tòch : Vieät Nam, trình độ học vấn: 8/12 Ngheà nghieäp: không; Cha: Tống Văn Đ; Mẹ: Lê Thanh L; Hoàn cảnh gia đình chưa có vợ con; Nhân thân: Ngày 11/12/2006 bị Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, đến ngày 11/11/2008 thì chấp hành xong hình phạt tù. Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 20/4/2020 (có mặt).

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1/ Bà Nguyễn Thị L; sinh năm 1977, địa chỉ: xã Nhị Bình, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

2/ Ông Huỳnh Công H, sinh năm: 1993; trú tại: phường 11, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 16 giờ 10 phút ngày 20/4/2020, tổ công tác Công an phường 14, quận Gò Vấp bắt quả tang Tống Hữu T đang cất giữ 01 gói nylon bên trong chứa tinh thể không màu (T khai là ma túy) tại trước khách sạn Nguyên T, phường 14, quận Gò Vấp nên tiến hành thu giữ và đưa về Công an phường 14 lập biên bản phạm tội quả tang.

Tại Cơ quan điều tra, Tống Hữu T khai nhận: Bản thân T sử dụng ma túy tổng hợp khoảng hơn 01 năm nay. Khoảng 10 giờ ngày 17/4/2020, T dùng điện thoại số sim 0705862797 gọi điện đến số điện thoại di động của người thanh niên tên T (chưa rõ lai lịch, sau khi gọi xong T đã xóa số của T) hỏi mua ma túy tổng hợp với số tiền là 400.000 đồng thì T đồng ý và hẹn T lúc 12 giờ ngày 20/4/2020 tại ngã tư Phan Văn Trị và Nguyễn Thái Sơn, quận Gò Vấp để giao ma túy và nhận tiền. Đến khoảng 10 giờ ngày 20/4/2020, Huỳnh Công H (sinh năm 1993, ngụ: phường 11, quận Gò Vấp) có đưa cho T 01 xe máy hiệu Yamaha Exciter biển số 59V3 – 17443 để T đi sửa giùm và T có đưa lại cho H 01 xe máy hiệu Sonic biển số 77L2 – 07749 để sử dụng làm phương tiện đi lại. T giao cho H chìa khóa phụ, còn chìa khóa chính T móc chung với chùm chìa khóa khác có gắn bao da màu đen và đeo trên người. Đến khoảng 11 giờ ngày 20/4/2020 T một mình điều khiển xe máy Yamaha Exciter biển số 59V3 – 17443 đến điểm hẹn thì gặp 01 người đàn ông đeo khẩu trang (không rõ lai lịch) đến đưa cho T 01 gói nylon bên trong có chứa ma túy tổng hợp. T nhận gói ma túy rồi đưa cho người đàn ông này 400.000 đồng. Sau đó T cất giấu gói ma túy trên vào trong bao da móc vào chùm chìa khóa của T đang đeo trên người rồi tiếp tục điều khiển xe đi chơi. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, T gọi điện cho H rủ H đi chơi và hẹn H trước khách sạn Nguyên T, địa chỉ phường 14, quận Gò Vấp. Khi gặp nhau tại địa chỉ trên, T và H đổi trả xe lại cho nhau và T không nói cho anh H biết mình đang cất giấu ma túy trong người. Khi T và H đang đứng chờ thêm một người bạn nữa đến thì lúc này Công an phường 14, quận Gò Vấp đến kiểm tra. Lúc này T liền bứt bao da móc trong chùm chìa khóa bên trong có chứa gói ma túy mà T đang đeo trên người thả xuống dưới đất ngay dưới chân T đang đứng để phi tang nhưng đã bị tổ Công tác phát hiện, thu giữ và lập biên bản phạm tội quả tang như đã nêu trên. (BL: 44 – 53) Tại Cơ quan điều tra, Huỳnh Công H khai nhận H đến gặp T để chờ rủ bạn đi chơi. Việc T cất giấu ma túy H hoàn toàn không biết, đến khi Công an đến kiểm tra thu giữ số ma túy của T thì H mới biết và chứng kiến toàn bộ sự việc trên. (BL: 58 – 65) Vật chứng thu giữ:

- 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, gói bên ngoài có chữ ký ghi tên Tống Hữu T và hình dấu của Công an phường 14, quận Gò Vấp. Căn cứ Kết luận giám định số 668/KLGĐ-H ngày 27/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự – Công an TP.Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thế không màu trong gói nylon có khối lượng 1,6020 gam, là ma túy thể rắn, loại Methamphetamine. (BL: 24 – 25), 01 điện thoại di động hiệu MIA2 Lite, số sim: 0705862797 (là điện thoại T sử dụng để liên lạc mua ma túy), 01 điện thoại di động hiệu A20 sim số 0797636056 (là điện thoại của Huỳnh Công H).

- 01 xe gắn máy hiệu Sonic biển số 77L2 – 07749, số khung: MH1KB1113KK215907; số máy: KB11E1215223. Qua xác minh chiếc xe máy trên do Nguyễn Thị L (sinh năm 1977, địa chỉ: phường Hải Cảng, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định) đứng tên chủ sở hữu. Xác minh tại Công an Hải Cảng, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định được biết Nguyễn Thị L hiện đã bán nhà đi khỏi địa phương, ở đâu làm gì không rõ. Tống Hữu T khai mua chiếc xe trên từ một thanh niên không rõ lai lịch và đã làm mất giấy đăng ký xe.

- 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter biển số 59V3 – 17443, số khung: RLCUG0610JY682695; số máy: G3D4E710622. Qua xác minh chiếc xe máy trên do Phạm Phú Cường ( phường 7, quận Gò Vấp) là chủ sở hữu. Xác minh tại Công an phường 7, quận Gò Vấp được biết anh Phạm Phú C không còn cư trú tại địa phương, hiện ở đâu không rõ.

Cơ quan điều tra đã đăng báo tìm chủ sở hữu xe gắn máy hiệu Sonic biển số 77L2 – 07749 và xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter biển số 59V3 – 17443 nhưng đến nay vẫn chưa có người đến liên hệ làm việc.

Cơ quan điều tra đã nhập kho vật chứng số vật chứng nêu trên theo Phiếu nhập kho số 126/PNK ngày 27/5/2020.

Đối với người thanh niên tên Tú là người đã bán ma túy cho Tống Hữu T, do chưa xác định được lai lịch nên chưa có căn cứ xử lý, khi nào xác định được sẽ xử lý sau.

Tại bản cáo trạng số 184/Ctr-VKS, ngày 14/10/2020 Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố bị cáo Tống Hữu T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà Đại diện viện kiểm sát sau khi luận tội và đưa ra quan điểm xét xử đã đề nghị:

- Xử phạt bị cáo Tống Hữu T từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

- Tịch thu và tiêu hủy 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, gói bên ngoài có chữ ký ghi tên Tống Hữu T và hình dấu của Công an phường 14, quận Gò Vấp. bên trong có chứa ma túy loại Methamphetamine;

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu MIA2 Lite, số sim: 0705862797 .

- Trả lại cho Huỳnh Công H điện thoại di động hiệu A20 sim số 0797636056.

- Trả lại cho bị bà Nguyễn Thị L chiếc xe gắn máy hiệu Sonic biển số 77L2 – 07749, số khung: MH1KB1113KK215907; số máy: KB11E1215223.

- Tiếp tục đăng báo tìm chủ sở hữu chiếc xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter biển số 59V3 – 17443, số khung: RLCUG0610JY682695, nếu không có chủ sở hữu đến nhận thì tịch thu sung công quỹ nhà nước.

- Miễn phạt bổ sung cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà hôm nay, sau khi Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp công bố bản cáo trạng thì bị cáo Tống Hữu T đã khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với bản kết luận điều tra của Công an quận Gò Vấp, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, biên bản phạm pháp quả tang và tang vật thu giữ, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án. Đối chiếu với các điều luật tương ứng do Bộ luật Hình sự quy định. Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Tống Hữu T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ, đã xâm phạm đến sự quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, đã xâm phạm và làm ảnh hưởng đến chính sách quản lý kinh tế, an ninh quốc gia, gây mất trật tự trị an xã hội.

[4] Mặc dù bị cáo nhận thức được việc tàng trữ, vận chuyển, sử dụng và mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm và nếu vi phạm sẽ bị trừng trị nghiêm khắc, nhưng bị cáo vẫn ngang nhiên tàng trữ trái phép chất ma tuý để sử dụng, bất chấp những quy định của pháp luật, bất chấp mọi hậu quả xảy ra kể cả việc trừng trị của pháp luật, cần thiết phải có mức hình phạt thật nghiêm khắc đối với bị cáo. Số ma túy bị cáo tàng trữ trái phép qua giám định có khối lượng khối lượng 1,6020 gam, là ma túy thể rắn, loại Methamphetamine nên Viện kiểm sát truy tố bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là có cơ sở. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, nhằm tạo điều kiện cho bị cáo phấn đấu trở thành người tốt hơn sau này biết tôn trọng pháp luật đồng thời cũng nhằm răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.

[5] Tuy nhiên khi lượng hình cần xem xét các tình tiết, tại Cơ quan điều tra cũng như qua diễn biến phiên toà hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải, gia đình bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[6] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự Hội đồng xét tính chất vụ án và hoàn cảnh của bị cáo nên quyết định miễn phạt cho bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 gói niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Tống Hữu T và hình dấu Công an phường 14, quận Gò Vấp bên trong có chứa ma túy ở thể rắn loại Methamphetamine là chất Nhà nước cấm lưu hành nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu tiêu hủy.

- Đối với chiếc điện thoại di động hiệu Mi A2, số sim: 0705862797 bị cáo dùng để liên lạc mua ma túy, Hội Đồng xét xử quyết định tịch thu sung công quỹ nhà nước.

- Đối với điện thoại di động hiệu A20 sim số 0797636056 của Huỳnh Công H không liên quan đến vụ án, Hội đồng xét xử quyết định trả lại cho H.

- Đối với chiếc xe gắn máy hiệu Sonic biển số 77L2 – 07749, số khung: MH1KB1113KK215907; số máy: KB11E1215223 qua xác minh do bà Nguyễn Thị L làm chủ sở hữu. tại phiên tòa hôm nay bà Loan có đơn xin vắng mặt, qua hồ sơ thể hiện bà Loan có đơn yêu cầu xin nhận lại chiếc xe trên nên Hội đồng xét xử quyết định trả lại chiếc xe trên cho bà Nguyễn Thị L.

- Đối với chiếc xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter biển số 59V3 – 17443, số khung: RLCUG0610JY682695; số máy: G3D4E710622 do chưa xác định được chủ sở hữu, Hội đồng xét quyết định giao Chi cục thi hành án quận Gò Vấp tiếp tục đăng báo tìm chủ sở hữu trong thời hạn 03 tháng nếu không có chủ sở hữu đến nhận thì tịch thu sung công quỹ nhà nước.

- Đối với người bán ma túy cho bị cáo do chưa xác định được nhân thân lai lịch, khi nào xác định được sẽ xử lý sau.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Tống Hữu T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Xử phạt bị cáo Tống Hữu T 01(một) năm 06(sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày 20/04/2020.

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017

- Tịch thu và tiêu hủy 01 gói nylon chứa tinh thể không màu bên ngoài có chữ ký ghi tên Tống Hữu T và hình dấu của Công an phường 14, quận Gò Vấp. bên trong có chứa ma túy loại Methamphetamine;

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu MIA2 Lite, số sim: 0705862797 .

- Trả lại cho Huỳnh Công H điện thoại di động hiệu A20 sim số 0797636056.

- Trả lại cho bà Nguyễn Thị L chiếc xe gắn máy hiệu Sonic biển số 77L2 – 07749, số khung: MH1KB1113KK215907; số máy: KB11E1215223.

- Giao Chi cục thi hành án dân sự quận Gò Vấp tiếp tục đăng báo tìm chủ sở hữu chiếc xe gắn máy xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter biển số 59V3 – 17443, số khung: RLCUG0610JY682695; số máy: G3D4E710622, trong thời hạn 03 tháng nếu không có chủ sở hữu đến nhận thì tịch thu sung công quỹ nhà nước.

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 126/PNK ngày 27/5/2020 của Công an quận Gò Vấp).

Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sựNghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Căn cứ Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại Điều 6, Điều 7, 7a, 7b, Điều 9 Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014, thời hiệu thi hành được thực hiện tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 176/2020/HS-ST ngày 06/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:176/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về