TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 176/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/04/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN GIỮA CHỊ M VỚI ANH D
Ngày 29 tháng 4 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 659/2019/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 12 năm 2019 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 58/2020/QĐXXST–HNGĐ ngày 30 tháng 3 năm 2020, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Kiều M, sinh năm 1992; địa chỉ cư trú: Ấp Cầu Dây, xã TMT, huyện C, tỉnh An Giang (có mặt).
- Bị đơn: Anh Đoàn Văn D, sinh năm 1990; địa chỉ cư trú: Ấp Cầu Dây, xã TMT, huyện C, tỉnh An Giang (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 18 tháng 11 năm 2019 và trong quá trình hòa giải, xét xử, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kiều M trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Năm 2016 thông qua mai mối, vợ chồng anh chị tiến đến hôn nhân và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TMT, huyện C, tỉnh An Giang. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng dần về sau phát sinh mâu thuẫn do anh D thường xuyên nhậu nhẹt và có những lời lẽ xúc phạm đến chị và gia đình chị, chị đã nhiều lần khuyên ngăn nhưng anh D vẫn không thay đổi nên anh chị đã sống ly thân từ tháng 10 năm 2019 cho đến nay. Nay tình trạng vợ chồng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu ly hôn anh D.
Về quan hệ con chung: chị và anh D có 01 con chung tên Đoàn Hải Đăng, sinh ngày 08/7/2017. Hiện cháu Đăng đang do anh D trực tiếp nuôi dưỡng, khi ly hôn chị đồng ý giao cháu Đăng cho anh D tiếp tục nuôi dưỡng và chị tự nguyện cấp dưỡng nuôi cháu Đăng mỗi tháng 1.500.000 đồng cho đến khi cháu Đăng trưởng thành và có khả năng lao động.
Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn anh Đoàn Văn D trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Thống nhất lời trình bày của chị M về quá trình đi đến hôn nhân, thừa nhận có nhậu nhẹt, có xúc phạm vợ và gia đình bên vợ, anh đã biết lỗi, xin vợ tha thứ, hiện nay vợ chồng đang ly thân. Anh không đồng ý ly hôn vì còn thương vợ thương con, mâu thuẫn vợ chồng không lớn nên vợ chồng có thể hàn gắn được.
Về quan hệ con chung: Có 01 con chung như chị M trình bày. Nếu yêu cầu ly hôn của chị M được chấp nhận thì anh yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu chị M cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa, chị M vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn với anh D. Anh D đồng ý.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đương sự đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định.
Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị công nhận thuận tình ly hôn của chị M với anh D, do tại phiên tòa anh D đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị M.
Về quan hệ con chung: Có 01 con chung tên Đoàn Hải Đăng, sinh ngày 08/7/2017. Đề nghị giao cháu Đăng cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng.
Về cấp dưỡng nuôi con: Anh D không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị không xem xét.
Tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án: Các giấy tờ chứng minh tư cách chủ thể của các đương sự; Giấy chứng nhận kết hôn; Giấy khai sinh của cháu Đăng; Biên bản xác minh.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa và các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về hình thức: Tranh chấp của các đương sự là về ly hôn, bị đơn có địa chỉ thường trú tại địa bàn huyện C, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện C tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị M với anh D chung sống với nhau từ năm 2016, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TMT, huyện C, tỉnh An Giang, phù hợp quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, là hôn nhân hợp pháp làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng trong thời kỳ hôn nhân. Chị M khởi kiện yêu cầu được ly hôn anh D với lý do: anh và chị có nhiều mâu thuẫn trong cuộc sống, anh D thường xuyên nhậu nhẹt, có lời lẽ xúc phạm vợ, vợ chồng đã ly thân khoảng 06 tháng. Tại phiên tòa anh D đồng ý ly hôn.
Hội đồng xét xử xét thấy: Mối quan hệ vợ chồng là mối quan hệ gắn bó lâu dài và bền vững, vợ chồng phải thương yêu chăm sóc lẫn nhau, cùng nhau xây dựng cuộc sống gia đình hạnh phúc, cùng chung tay nuôi dưỡng chăm sóc con chung nhưng anh chị đã ly thân khoảng 06 tháng. Thời gian ly thân là thời gian để anh chị cảm nhận lại tình cảm vợ chồng, nhưng anh chị đã không cảm nhận được và không hàn gắn tình cảm vợ chồng với nhau. Anh, chị đã vi phạm quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt, nên chị M yêu cầu ly hôn, anh D đồng ý. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 55 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, công nhận thuận tình ly hôn của chị M với anh D.
[2.2] Về quan hệ con chung: Có 01 con chung tên Đoàn Hải Đăng, sinh ngày 08/7/2017.
Anh chị thỏa thuận: Anh D trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đăng. Xét yêu cầu của chị M, anh D, để tạo điều kiện phát triển về mọi mặt cho cháu, ổn định tinh thần, sinh sống, học tập của cháu, Hội đồng xét xét chấp nhận giao cháu Đăng cho anh D được trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp tại khoản 1 Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
Chị M có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Anh D không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét. [2.4] Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[3] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Kiều M phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào các Điều 9, Điều 51, Điều 53, Điều 55, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;
Căn cứ khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Kiều M với anh Đoàn Văn D.
Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 213 ngày 29/12/2016 của Ủy ban nhân dân xã TMT, huyện C, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.
2. Về quan hệ con chung:
2.1. Chị M với anh D có 01 con chung tên Đoàn Hải Đăng, sinh ngày 08/7/2017.
2.2. Giao cháu Đoàn Hải Đăng, sinh ngày 08/7/2017 cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng.
Chị M có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
3. Về cấp dưỡng nuôi con: Anh D không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
4. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
5. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Kiều M phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0005968 ngày 04 tháng 12 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C.
6. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 176/2020/HNGĐ-ST ngày 29/04/2020 về tranh chấp ly hôn giữa chị M với anh D
Số hiệu: | 176/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Phú - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/04/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về