Bản án 174/2018/HS-ST ngày 18/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 174/2018/HS-ST NGÀY 18/07/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 7 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 175/2018/TLST- HS ngày 21 tháng 6 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 178/2018/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 7 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đỗ Văn B; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1976 tại Thái Bình; nơi cư trú: Đội 16, xã Noong Hẹt, huyện Đ, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 3/12 phổ thông; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đỗ Văn P và bà: Trần Thị T; vợ: Trần Thị T1 (đã ly hôn); con: 02 con, lớn 20 tuổi, nhỏ 13 tuổi; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: chưa bị kết án và chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; bị tạm giữ từ ngày 14/5/2018 sau đó bị tạm giam cho đến ngày xét xử (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 08 giờ 30 phút ngày 14/5/2018 Tổ công tác Công an huyện Đ đang làm nhiệm vụ tại khu vực đội 15, xã N, huyện Đ đã phát hiện, bắt quả tang Đỗ Văn B đang cất giấu trái phép chất ma túy trong người, cơ quan công an đã thu giữ trong túi áo ngực bên trái B đang mặc 01 gói Heroin được gói bên ngoài bằng nilon màu xanh, bên trong có 02 gói nhỏ Heroin đều gói bằng nilon màu trắng; thu giữ trong túi quần bên trái B đang mặc một ống hút nhựa màu trắng, bên trong có chứa Heroin; thu giữ trong túi quần sau bên phải B đang mặc 02 ống hút nhựa, một ống màu trắng và 01 ống màu hồng, bên trong 02 ống chứa 19 viên Hồng phiến (Methamphetamine). Tổng khối lượng ma túy B cất giấu trái phép là: 7,92 gam Heroine và 2,14 gam Methamphetamine. Đỗ Văn B khai mục đích cất giấu số ma túy này để sử dụng cho bản thân.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa Đỗ Văn B khai, nguồn gốc số ma túy bị thu giữ là B mua của một người đàn ông dân tộc Lào, không biết tên tuổi địa chỉ với giá 1.600.000 đồng ở bản Pa Thơm, xã P, huyện Đ vào lúc 07 giờ ngày
14/5/2018; khi đang trên đường về nhà thì bị Công an phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Tại bản Cáo trạng số 125/CT-VKS-HĐB ngày 21/6/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố Đỗ Văn B về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm n Khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ thực hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động xét xử, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ Điểm n Khoản 2 Điều 249, Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo từ 06 năm đến 06 năm 06 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 47 BLHS và Điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy vật chứng vụ án.

Bị cáo Đỗ Văn B không có lời bào chữa nào, nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ. Tại lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử cho hưởng mức hình phạt thấp nhất để sớm được trở về hòa nhập cộng đồng và cải tạo thành công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo bị truy tố:

Vào hồi 08 giờ 30 phút ngày 14/5/2018 tại đội 15, xã N, huyện Đ, tỉnh Điện Biên, Đỗ Văn B đã có hành vi cất giấu trái phép trong người 7,92 gam Heroine và 2,14 gam Methamphetamine với ý thức chủ quan là để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo được Công an huyện Đ phát hiện, bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như bản Cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 09 giờ 00 phút ngày 14/5/2018; Biên bản niêm phong vật chứng và Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng và lấy mẫu giám định ngày 14/5/2018; Kết luận giám định số 488/GĐ-PC54 ngày 21/5/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên; lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Đỗ Văn B đã cất giấu hai chất ma túy là Heroin và Methamphetamin, hai chất ma túy này đều được quy định trong cùng một điểm nên được cộng lại với nhau để xác định tổng khối lượng, theo đó tổng khối lượng ma túy Đỗ Văn B tàng trữ trái phép là 10,06 gam (theo quy định tại Điều 4 Nghị định 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính Phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015). Do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm n Khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Hành vi cất giấu trái phép chất ma túy để sử dụng mà Đỗ Văn B thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý và sử dụng các chất ma tuý của Nhà nước. B phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp; khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.

Từ những phân tích trên, khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên truy tố Đỗ Văn B về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm n Khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là hoàn toàn đúng người, đúng tội.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Đỗ Văn B học hết lớp 3/12 phổ thông thì bỏ học ở nhà làm ruộng và xây dựng gia đình. Do thiếu ý thức chấp hành pháp luật, nghiện ma túy từ năm 2013, muốn có ma túy sử dụng nên đã phạm tội; bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng nên cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời nhằm răn đe phòng ngừa tội phạm nói chung, tội phạm về ma túy nói riêng.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự thì bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là người nghiện ma túy, làm nông nghiệp thu nhập thấp, không ổn định, điều kiện kinh tế khó khăn, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Bị cáo khai nguồn gốc gói ma túy bị thu giữ là mua của một người đàn ông dân tộc Lào nhưng không biết họ tên, địa chỉ; cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được người này nên Hội đồng xét xử không có cơ sở xử lý.

[6] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai trên đường đi mua ma túy và trên đường đi về, bị cáo đã đi nhờ xe mô tô của một người đàn ông và một người phụ nữ không quen biết, cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được hai người này nên Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

[7] Về vật chứng: Cơ quan Công an thu giữ của bị cáo 7,92 gam Heroine và 2,14 gam Methamphetamine là vật Nhà nước cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị định số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14, buộc bị cáo Đỗ Văn B phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Điểm n Khoản 2 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

- Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Văn B phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

- Xử phạt bị cáo Đỗ Văn B 06 (sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (14/5/2018).
Tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm thi hành án.

2. Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điểm a Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy vật chứng của vụ án là 7,92 gam Heroine và 2,14 gam Methamphetamine, trong đó: đã gửi giám định 0,21 gam Heroine và 0,21 gam Methamphetamine không hoàn lại mẫu, còn lại 7,71 gam Heroine và 1,93 gam Methamphetamine (theo Biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng ngày 14/5/2018 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ).

3. Áp dụng Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và Điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Đỗ Văn B phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (18/7/2018).

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

300
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 174/2018/HS-ST ngày 18/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:174/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về