Bản án 17/2021/HS-ST ngày 12/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

A ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 17/2021/HS-ST NGÀY 12/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 12/2021/HSST ngày 22 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2020/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo: Trần Xuân A, sinh ngày 02/3/1966, tại Thái Bình. Nơi cư trú: Thôn N, xã S, huyện X, tỉnh Thái Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/10; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trần Văn Th và bà Hà Thị N (đều đã chết); vợ: Nhâm Thị N và 04 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 270/2015/HSST ngày 24/12/2015 của Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội xử phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Chấp hành xong án phí HSST ngày 05/4/2016. Chấp hành xong án phạt tù ngày 18/5/2017; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07/11/2020 đến ngày 10/11/2020 chuyển tạm giam cho đến nay.

* Người chứng kiến:

- Ông Phạm Hồng Q, sinh năm 1965.

Trú tại: Số nhà 484, tổ 07, phường Đ, thành phố B.

- Ông Đặng Xuân Q, sinh năm 1964.

Trú tại: Số nhà 10, tổ 07, phường Đ, thành phố B.

(Bị cáo có mặt, ông Q, ông Q đều vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 10 giờ 30 phút ngày 07/11/2020 Trần Xuân A điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Loncin màu nâu, biển kiểm soát 17F9 - 4702 từ nhà lên khu vực đường B, tổ 01, phường Đ, thành phố B với mục đích mua ma túy để sử dụng. Tại đây A gặp một người nam giới khoảng 35 tuổi không biết tên, địa chỉ, A hỏi người này “em có ma túy không bán cho anh 200.000 đồng hêrôin và 100.000 đồng ma túy đá”, người nam giới trả lời “có, đưa tiền đây”, A đưa cho người này 300.000 đồng, người nam giới nhận tiền và đưa lại cho A 01 gói được gói bằng giấy tráng kim màu trắng và 01 túi ni lon có chứa chất dạng tinh thể trong suốt. Khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày khi A đi đến khu vực đường N, tổ 11, phường Đ, thành phố B thì bị tổ công tác của Công an phường Đ, thành phố B yêu cầu A dừng xe lại để kiểm tra. Trước sự chứng kiến của ông Phạm Hồng Q và ông Đặng Xuân Q, A tự giác giao nộp cho tổ công tác 01 túi ni lon trong suốt có chất tinh thể trong suốt, niêm phong ký hiệu M1 và 01 gói được bằng giấy tráng kim màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục, niêm phong ký hiệu M2. Tổ công tác quản lý của A chiếc xe mô tô biển kiểm soát 17F9 – 4702, chiếc điện thoại Itel màu đen và số tiền 170.000 đồng.

Bản kết luận giám định số 400/KLGĐMT-PC09 ngày 08/11/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Chất tinh thể trong suốt trong phong bì niêm phong ghi M1 vật chứng quản lý của Trần Xuân A ngày 07/11/2020 là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,1051 gam; Chất bột màu trắng dạng cục trong phong bì niêm phong ghi M2 vật chứng quản lý của Trần Xuân A ngày 07/11/2020 là ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,1768 gam.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi của mình đúng như bản cáo trạng đã nêu. Bản cáo trạng số 17/CT-VKSTPTB ngày 21 tháng 01 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị: Xử phạt bị cáo từ 18 đến 21 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 07/11/2020. Không áp dụng hình phạt bổ sung.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tch thu tiêu hủy số Heroine còn lại sau giám định là 0,1377 gam và số Methamphetamine còn lại sau giám định là 0,0440 gam; trả lại cho bị cáo chiếc xe mô tô nhãn hiệu Loncin màu nâu, biển kiểm soát 17F9 – 4702, chiếc điện thoại Itel màu đen và số tiền 170.000 đồng nhưng tiếp tục quản lý chiếc điện thoại Itel màu đen và số tiền 170.000 đồng để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Bị cáo không bào chữa và không có ý kiến tranh luận.

Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục nên các hành vi, quyết định tố tụng trong vụ án này là hợp pháp.

[2] Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được chứng minh bằng:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang.

- Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ.

- Bản kết luận giám định số 400/KLGĐMT-PC09 ngày 08/11/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

- Biên bản ghi lời khai của người chứng kiến.

Cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 11 giờ 30 phút ngày 07/11/2020, tại khu vực đường N, tổ 11, phường Đ, thành phố B, tỉnh Thái Bình tổ công tác Công an phường Đ, thành phố B, tỉnh Thái Bình phát hiện, bắt quả tang Trần Xuân A có hành vi tàng trữ trái phép 01 túi ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,1051 gam và 01 gói ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,1768 gam, mục đích để sử dụng cho bản thân.

nh vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a)...;

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

...

[3] Về tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Bị cáo biết rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tiền án, tiền sự nhưng là người có nhân thân xấu, bị cáo đã phạm tội bị Tòa án đưa ra xét xử. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, bố đẻ được Nhà nước tặng Huy chương kháng chiến hạng nhì c tình tiết này được giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, cần thiết phải xử phạt mức hình phạt nghiêm minh với hành vi phạm tội của bị cáo, cần phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm.

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ lượng ma túy ít, để sử dụng, không nhằm mục đích kiếm lời, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo. Hội đồng xét xử cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án:

- Số Heroine còn lại sau giám định là 0,1377 gam và số Methamphetamine còn lại sau giám định là 0,0440 gam thu giữ của bị cáo, đây là vật thuộc loại nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

- Chiếc điện thoại Itel màu đen và số tiền 170.000đồng không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho bị cáo.

- Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Loncin màu nâu, biển kiểm soát 17F9 - 4702, quá trình điều tra xác định đăng ký mang tên ông Lê Văn Kh, sinh năm 1966, địa chỉ thôn P, xã V, thành phố B, tỉnh Thái Bình. Năm 2017 ông Kh đã bán chiếc xe cho Trần Xuân A nhưng chưa làm thủ tục sang tên đổi chủ. Chiếc xe này không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho bị cáo.

[7] Về nguồn gốc số ma túy: Tài liệu điều tra xác định bị cáo Trần Xuân A mua của một người nam giới khoảng 35 tuổi không biết tên, địa chỉ tại khu vực đường B, tổ 01, phường Đ, thành phố B, tỉnh Thái Bình nên cơ quan Điều tra không có căn cứ để xử lý.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38; Điều 47 Bộ luật Hình sự;

- Căn cứ Điều 106, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự;

- Căn cứ Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Xuân A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trần Xuân A 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 07/11/2020.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tch thu tiêu hủy số Heroine còn lại sau giám định là 0,1377 gam và số Methamphetamine còn lại sau giám định là 0,0440 gam trong phong bì niêm phong số 400/KLGĐMT-PC09 ngày 08/11/2020.

- Trả cho bị cáo chiếc xe mô tô nhãn hiệu Loncin màu nâu, biển kiểm soát 17F9 - 4702, chiếc điện thoại Itel màu đen và số tiền 170.000 đồng nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

(Vt chứng Công an thành phố Thái Bình đã chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình ngày 21/01/2021).

4. Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (12/3/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2021/HS-ST ngày 12/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:17/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về