Bản án 17/2021/HNGĐ-ST ngày 31/03/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 17/2021/HNGĐ-ST NGÀY 31/03/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Vào ngày 31 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương xét xử công khai vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số 1465/2020/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 12 năm 2020 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2021/QĐXXST - HNGĐ ngày 23 tháng 02 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Phan Thị T., sinh năm 1986; nơi thường trú: Thôn S., xã Đ, huyện H, tỉnh Bắc Giang; nơi tạm trú: khu phố B, phường C, thành phố A, tỉnh Bình Dương. Có mặt.

Bị đơn: Ông Nguyễn Quang S., sinh năm 1978; nơi thường trú: Thôn S., xã Đ, huyện H, tỉnh Bắc Giang; nơi tạm trú: khu phố B, phường C, thành phố A, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 07/12/2020, bản tự khai, các lời khai trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa nguyên đơn bà Phan Thị T. trình bày:

Bà T. và ông Nguyễn Quang S. tự nguyện quen biết, tìm hiểu nhau, sau đó cả hai tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện H, tỉnh Bắc Giang theo giấy chứng nhận kết hôn số 51, quyển số 01/2007 ngày 26/7/2007.

Thời gian đầu sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc hòa thuận, tuy nhiên đến khoảng đầu năm 2019 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống về mọi mặt, nên thường xuyên cãi nhau. Ông S. trước đây có nhiều lần đánh bà T., không có trách nhiệm với gia đình, từ đó vợ chồng mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Mặc dù hiện nay vẫn còn ở chung nhà nhưng cả hai không còn yêu thương, quan tâm đến cuộc sống của nhau, mỗi người đều có cuộc sống riêng. Mâu thuẫn vợ chồng bà T. không được chính quyền địa phương nơi bà T., ông S. cư trú can thiệp, hòa giải vì bà T., ông S. không yêu cầu.

Bà T. xác định không còn tình cảm vợ chồng với ông S., mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà T. được ly hôn với ông S..

Về con chung: Quá trình chung sống bà T. và ông S. có hai người con chung tên Nguyễn Tuấn A., sinh ngày 19/11/2010 và Nguyễn Tuấn L., sinh ngày 06/8/2007. Sau khi ly hôn bà T. yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cả hai người con chung, bà T. không yêu cầu ông S. cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình tố tụng, bị đơn ông Nguyễn Quang S. đã được tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng và triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng, không cung cấp bản tự khai hay bất kỳ tài liệu, chứng cứ gì để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung vụ án: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án nhận thấy yêu cầu khởi kiện của bà T. là có căn cứ, ông S. đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa là tự từ bỏ quyền và nghĩa vụ của mình. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết về vấn đề hôn nhân và con chung đối với bị đơn ông Nguyễn Quang S., có nơi cư trú tại địa chỉ khu phố B, phường C, thành phố A, tỉnh Bình Dương. Do đó, quan hệ pháp luật trong vụ án được xác định là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thuận An theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Quá trình giải quyết vụ án, ông Nguyễn Quang S. đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt là tự từ bỏ quyền và nghĩa vụ của mình. Do đó, Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại Điều 227 và 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Phan Thị T. và ông Nguyễn Quang S. chung sống với nhau từ năm 2007 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đoan Bái, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang theo giấy chứng nhận kết hôn số 51, quyển số 01/2007 ngày 26/7/2007. Quan hệ hôn nhân của bà T. và ông S. là hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật bảo vệ.

[2.2] Bà T. đều xác định trong cuộc sống hôn nhân có mâu thuẫn nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên cãi nhau, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Ông S. trước đây có nhiều lần đánh bà T., không có trách nhiệm với gia đình, từ đó vợ chồng mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Mặc dù hiện nay vẫn còn ở chung nhà nhưng cả hai không còn yêu thương, quan tâm đến cuộc sống của nhau, mỗi người đều có cuộc sống riêng.

[2.3] Xét thấy, quan hệ hôn nhân giữa người vợ và người chồng chỉ tồn tại bền vững dựa trên tình cảm thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình và khi có những bất đồng quan điểm, mâu thuẫn trong quan hệ vợ chồng thì người vợ và người chồng phải cùng nhau tích cực hàn gắn, xóa bỏ những mâu thuẫn, duy trì tình cảm tốt đẹp. Nhưng quan hệ hôn nhân giữa bà T. và ông S. không đạt được các yếu tố của một gia đình hạnh phúc, mâu thuẫn giữa bà T. và ông S. đã kéo dài. Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ nhưng ông S. không đến Tòa án làm việc, không cung cấp bản tự khai hay bất cứ tài liệu chứng cứ nào để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, cho thấy ông S. không quan tâm và không mong muốn vợ chồng hàn gắn, đoàn tụ với bà T.. Do đó, lời trình bày cũng như yêu cầu về việc ly hôn của bà T. là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.4] Về con chung: Trong thời gian chung sống bà T. và ông S. có 02 người con chung tên Nguyễn Tuấn A., sinh ngày 19/11/2010 và Nguyễn Tuấn L., sinh ngày 06/8/2007. Sau khi ly hôn, bà T. yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không yêu cầu ông S. cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy hiện nay hai người con đang được bà T. chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục, bà T. có công việc và thu nhập ổn định, ngoài ra hai cháu cũng có nguyện vọng được sống với bà T. sau khi ông S. và bà T. ly hôn. Do đó, Hội đồng xét xử có cơ sở giao hai con chung cho bà T. trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

[2.5] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà T. tự nguyện không yêu cầu ông S. cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[2.6] Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phan Thị T..

[4] Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa về nội dung vụ án là có cơ sở và phù hợp quy định của pháp luật.

[5] Về án phí: Bà Phan Thị T. phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39; các Điều 147, 227, 228, 266, 271 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phan Thị T. đối với bị đơn ông Nguyễn Quang S. về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Phan Thị T. được ly hôn với ông Nguyễn Quang S..

- Về con chung: Giao 02 người con chung tên Nguyễn Tuấn A., sinh ngày 19/11/2010 và Nguyễn Tuấn L., sinh ngày 06/8/2007 cho bà Phan Thị T. trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

- Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận sự tự nguyện của bà Phan Thị T. về việc không yêu cầu ông Nguyễn Quang S. cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí: Bà Phan Thị T. phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0053360 ngày 15/12/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

134
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2021/HNGĐ-ST ngày 31/03/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:17/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về