Bản án 17/2021/HNGĐ-ST ngày 18/03/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 17/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/03/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 

Ngày 18 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 23/2021/TLST- HNGĐ ngày 20 tháng 01 năm 2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2021/QĐXXST - HNGĐ ngày 03 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Yến H, sinh năm 1992 Nơi ĐKHKTT: Thôn A, xã T, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình Nơi ở hiện nay: Thôn H, xã T, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1988 Địa chỉ: Thôn A, xã T, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình

(Chị H và anh N đều có đơn xin vắng mặt tại phiên toà).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, biên bản ghi lời khai, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Yến H trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn N kết hôn cùng nhau do tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân (viết tắt là UBND) xã T, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình vào ngày 07-3-2012. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp nhau, không bảo ban được nhau trong cuộc sống hàng ngày. Mâu thuẫn trầm trọng, đôi bên không khắc phục được đã sống ly thân từ cuối năm 2013 đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh N. Về nuôi con chung: Chị và anh N có 01 con chung là Nguyễn Thị Quỳnh N1, sinh ngày 31-5-2013. Nếu ly hôn chị nhường anh N nuôi con và không góp cấp dưỡng nuôi con cùng anh N. Về chia tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 28-01-2021, bị đơn anh Nguyễn Văn N trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị Nguyễn Thị Yến H kết hôn cùng nhau do tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình vào ngày 07-3-2012. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp nhau, không bảo ban được nhau trong cuộc sống hàng ngày, hay đánh cãi chửi nhau. Mâu thuẫn trầm trọng, đôi bên không khắc phục được đã sống ly thân từ cuối năm 2013 đến nay. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị H. Về nuôi con chung: Anh và chị H có 01con chung là Nguyễn Thị Quỳnh N1, sinh ngày 31-5-2013. Nếu ly hôn anh xin được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu chị H góp cấp dưỡng nuôi con cùng anh. Về chia tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình giám sát sự tuân theo pháp luật tại phiên tòa phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tiến hành thụ lý, thu thập chứng cứ và xét xử vụ án theo đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục tố tụng mà pháp luật quy định, các đương sự đã thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Các đương sự có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt họ. Quan điểm về việc giải quyết vụ án: Về hôn nhân, đề nghị Hội đồng xét xử cho chị Nguyễn Thị Yến H được ly hôn anh Nguyễn Văn N; về nuôi con chung: Giao con chung Nguyễn Thị Quỳnh N1, sinh ngày 31-5-2013 cho anh Nguyễn Văn N trực tiếp nuôi dưỡng. Chấp nhận sự tự nguyện của anh N không yêu cầu chị H phải góp cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh; về chia tài sản chung: Không đặt ra giải quyết; về án phí: Chị H phải chịu tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị Yến H khởi kiện yêu cầu được ly hôn anh Nguyễn Văn N, căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

Nguyên đơn và bị đơn đều có đơn xin giải quyết và xét xử vắng mặt, vì vậy, Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại khoản 1 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Yến H kết hôn với anh Nguyễn Văn N tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình vào ngày 07-3-2012, là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận được khoảng 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không bảo ban được nhau trong cuộc sống hàng ngày, đôi bên không khắc phục được, đã ly thân từ cuối năm 2013 đến nay. Xét mâu thuẫn giữa chị H và anh N đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, chị H có đơn xin ly hôn, anh N nhất trí ly hôn. Vì vậy cần chấp nhận yêu cầu của chị H, xử cho chị H được ly hôn anh N là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về nuôi con chung: Chị H và anh N có 01 con chung Nguyễn Thị Quỳnh N1, sinh ngày 31-5-2013, hiện do anh N đang nuôi dưỡng. Chị H và anh N đều thống nhất để anh N trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Thị Quỳnh N1, chị H không phải góp cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh N. HĐXX thấy đây là sự tự nguyện của các đương sự nên cần chấp nhận.

[4] Về chia tài sản chung: Chị H và anh N đều trình bầy không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Xét quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà về hướng giải quyết vụ án phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, 59, 81,82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147, khoản 1 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Yến H và anh Nguyễn Văn N.

2.Về nuôi con chung: Giao con chung Nguyễn Thị Quỳnh N1, sinh ngày 31-5- 2013 cho anh Nguyễn Văn N trực tiếp nuôi dưỡng. Chị H không phải góp cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh N. Chị H có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

3.Về chia tài sản chung: Không giải quyết.

4.Về án phí: Chị Nguyễn Thị Yến H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Chuyển số tiền 300.000 đồng chị H đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0006310 ngày 20-01-2021của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình thành tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

5.Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Yến H và anh Nguyễn Văn N có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận tống đạt hoặc niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2021/HNGĐ-ST ngày 18/03/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình 

Số hiệu:17/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hưng Hà - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về