Bản án 17/2020/HNGĐ-ST ngày 03/07/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 17/2020/HNGĐ-ST NGÀY 03/07/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 03 tháng 07 năm 2020 tại trụ sở, Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 102/2020/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2020 về việc “ Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 323/2020/QĐXX-ST ngày 22 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị Đ sinh năm 1987 ĐKHKTT tại: Khu 4, xã H, thành phố V, tỉnh P Chỗ ở hiện nay: Khu 4, xã T, huyện Ph, tỉnh P

Bị đơn: Anh Đào Mạnh Th - sinh năm 1987 ĐKHKTT tại: Khu 4, xã H, thành phố V, tỉnh P (Chị Đ và anh Th có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 15 tháng 03 năm 2020, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn là chị Đỗ Thị Đ trình bày:

Về quan hệ hôn nhân:

Chị Đỗ Thị Đ và anh Đào Mạnh Th đăng ký kết hôn ngày 06 tháng 5 năm 2008 tại UBND xã H, thành phố V, tỉnh P. Trước khi kết hôn được tự do tìm hiểu, lấy nhau hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc. Vợ chồng sống hạnh phúc với nhau khoảng 3 năm thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh Th ở nhà ghen tuông dẫn đến vợ chồng có những bất đồng quan điểm sống. Tháng 01/2019 anh Th làm đơn xin ly hôn với chị vì vậy chị đã đi ra khỏi nhà anh Th và vợ chồng sống ly thân, chấm dứt quan hệ vợ chồng từ đó cho đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị Đ đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Th.

Chị Đỗ Thị Đ xác định vợ chồng có 01 con chung là cháu Đào Thị Anh T - sinh ngày: 09/4/2009, hiện nay cháu T đang được anh Th trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục. Khi ly hôn chị Đ đồng ý để anh Th trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục cháu T.

Về tài sản chung: Chị Đỗ Thị Đ xác định vợ chồng có nhưng không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về công nợ chung và công sức đóng góp: Chị Đỗ Thị Đ xác định vợ chồng không có vì vậy không đề nghị Tòa án giải quyết.

Bị đơn là anh Đào Mạnh Th trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Th nhất trí với trình bày của chị Đ về thời gian đăng ký kết hôn và quá trình tìm hiểu của vợ chồng. Theo anh Th trong cuộc sống vợ chồng không có mâu thuẫn gì lớn, chỉ có những mâu thuẫn gia đình nhỏ, việc chị Đ khai là do anh ghen tuông dẫn đến mâu thuẫn là không đúng, do kinh tế và tác động từ bên ngoài nên dẫn đến vợ chồng xảy ra mâu thuẫn. Tháng 01/2019 chị Đ đã đi ra khỏi nhà anh và vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. Lí do chị Đ đi khỏi nhà anh cũng không rõ. Trong quá trình vợ bỏ đi anh vẫn luôn dành tình cảm cho vợ, vẫn luôn hỏi han quan tâm đến chị Đ và anh cũng nhờ gia đình bạn bè tác động để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Nay chị Đ xin ly hôn với anh, anh không đồng ý ly hôn với chị Đ vì vẫn còn tình cảm với vợ và muốn vợ chồng cùng nhau nuôi dạy con.

Về con chung: Anh Đào Mạnh Th thống nhất xác định vợ chồng có 01 con chung là cháu Đào Thị Anh T - sinh ngày: 09/4/2009, hiện nay cháu T đang được anh Th trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục. Khi ly hôn anh Th đề nghị được trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục cháu T. Chị Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh Th.

Về tài sản chung: Anh Đào Mạnh Th xác định vợ chồng có nhưng không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về công nợ chung và công sức đóng góp: Anh Đào Mạnh Th xác định vợ chồng không có vì vậy không đề nghị Tòa án giải quyết.

Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì:

Căn cứ vào Điều 19, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội;

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đỗ Thị Đ, xử cho chị Đỗ Thị Đ được ly hôn với anh Đào Mạnh Th.

Về con chung: Giao cho anh Đào Mạnh Th trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Đào Thị Anh Th - sinh ngày 09/4/2009. Chị Đỗ Thị Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Không xem xét giải quyết trong vụ án này.

Về công nợ chung và công sức đóng góp: Không có, không xem xét giải quyết trong vụ án này.

Về án phí: Chị Đỗ Thị Đ phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về thủ tục tố tụng:

Về quan hệ pháp luật: Đây là vụ án “Tranh chấp Hôn nhân và gia đình” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn có nơi cư trú tại khu 4, xã H, thành phố V, tỉnh P vì vậy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ Luật tố tụng dân sự.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Đỗ Thị Đ và anh Đào Mạnh Th đăng ký kết hôn ngày 06 tháng 5 năm 2008 tại UBND xã H, thành phố V, tỉnh P. Trước khi kết hôn anh chị được tự do tìm hiểu, lấy nhau hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc. Xét thấy chị Đ và anh Th kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, việc kết hôn không vi phạm điều cấm nên là hôn nhân hợp pháp. Theo chị Đ, vợ chồng chung sống hạnh phúc được 03 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do anh Th ở nhà ghen tuông dẫn đến vợ chồng có những bất đồng quan điểm sống. Chị Đ khẳng định tình cảm vợ chồng không còn đối với anh Th. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 01/2019, chấm dứt quan hệ vợ chồng cho đến nay. Trong thời gian sống ly thân không ai quan tâm đến ai. Anh Th cho rằng vợ trong cuộc sống vợ chồng không có mâu thuẫn gì lớn, chỉ có những mâu thuẫn gia đình nhỏ, việc chị Đ khai là do anh ghen tuông dẫn đến mâu thuẫn không đúng. Anh Th khẳng định chị Đ đã đi ra khỏi nhà anh và vợ chồng sống ly thân từ tháng 01/2019 cho đến nay. Anh cho rằng tình cảm vợ chồng vẫn còn, xin được đoàn tụ nhưng không đưa ra được biện pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Tại Biên bản xác minh tình trạng hôn nhân giữa chị Đỗ Thị Đ và anh Đào Mạnh Th tại nơi cư trú ngày 25 tháng 5 năm 2020, khu dân cư khẳng định chị Đ và anh Th có mâu thuẫn nhưng không biết nguyên nhân và xác nhận chị Đ đã đi khỏi nơi cư trú từ tháng 01/2019. Xét thấy mục đích của hôn nhân giữa chị Đ và anh Th không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài vì vậy chị Đ yêu cầu ly hôn với anh Đào Mạnh Th là có căn cứ cần chấp nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình. Việc anh Th xin đoàn tụ nhưng không có biện pháp gì để cải thiện đời sống chung của vợ chồng vì vậy không chấp nhận yêu cầu của anh Th là phù hợp.

[3]. Về con chung: Chị Đỗ Thị Đ và anh Đào Mạnh Th có 01 con chung là cháu Đào Thị Anh T - sinh ngày: 09/4/2009, hiện nay cháu T đang được anh Th trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục, cháu T có nguyện vọng ở với anh Th. Hai anh chị đều thống nhất giao cho anh Th trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục cháu T; chị Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh Th vì anh Th không yêu cầu. Xét thấy phù hợp với quy định tại khoản 2 điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình cần công nhận sự thỏa thuận của chị Đ và anh Th.

[4]. Về tài sản chung, Chị Đỗ Thị Đ và anh Đào Mạnh Th xác định vợ chồng có nhưng không đề nghị Tòa án giải quyết do đó không đặt ra giải quyết trong vụ án này.

[5]. Về công nợ chung và công sức đóng góp: Chị Đỗ Thị Đ và anh Đào Mạnh Th xác định vợ chồng không có vì vậy không đề nghị Tòa án giải quyết do đó không đặt ra giải quyết trong vụ án này.

[6]. Về án phí: Chị Đỗ Thị Đ phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Xét đề nghị nêu trên của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội;

Căn cứ khoản 1 Điều 56,81,82,83 Luật Hôn nhân và gia đình Xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Đỗ Thị Đ Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Đỗ Thị Đ được ly hôn với anh Đào Mạnh Th Về con chung:

Công nhận sự thỏa thuận của anh Đào Mạnh Th và chị Đỗ Thị Đ: Giao cho anh Đào Mạnh Th trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Đào Thị Anh T - sinh ngày 09/4/2009. Chị Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh Th vì anh Th không yêu cầu.

Không ai được cản trở việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Về tài sản chung: Không giải quyết trong vụ án này.

Về nợ chung, công sức đóng góp: Không có không đặt ra giải quyết trong vụ án này.

Về án phí: Chị Đỗ Thị Đ phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm. Xác nhận chị Đ đã nộp tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0000887 ngày 31/3/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

151
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2020/HNGĐ-ST ngày 03/07/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:17/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Việt Trì - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về