Bản án 17/2019/HS-ST ngày 31/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN ĐỒ SƠN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 17/2019/HS-ST NGÀY 31/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 16/2019/HSST ngày 07 tháng 10 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2019/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 10 năm 2019, đối với bị cáo:

Nguyễn Quang C, sinh ngày 27-9-1978 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Tổ dân phố B, phường B, quận Đ, thành phố Hải Phòng; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 03/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Quang T và bà Bùi Thị Th; Có vợ là Nghiêm Thị H và 04 con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2017; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân: 01 tiền án đã được xóa án tích tại Bản án số 03/2012/HSST ngày 23-02-2012 của Tòa án nhân dân quận Đồ Sơn xử phạt 27 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; Bị bắt tạm giữ từ ngày 22-6-2019 đến ngày 25-6-2019 chuyển tạm giam; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Quang C: Bà Nguyễn Thị Hồng Th - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Người làm chứng: Ông Hoàng Văn Tr, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyn Quang C là người nghiện ma túy (Heroine) từ năm 2009, hình thức sử dụng ma túy là hít qua đường hô hấp. Do có nhu cầu mua ma túy về sử dụng nên vào khoảng 12 giờ 00 phút, ngày 22-6-2019, C điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 15M1-07191, một mình đi tới nhà của Hoàng Văn Kh với mục đích mua ma túy. C đứng trước cửa nhà Khánh gọi: “Kh ơi, Kh ơi”. Kh đi từ trong nhà ra đứng ở phía trong cổng. C nói với Kh: “bán cho hai trăm” rồi đưa cho Kh 01 tờ polyme mệnh giá 200.000 đồng qua khe cổng. Kh cầm tiền và đưa cho C 02 ống hút nhựa được hàn kín hai đầu, bên trong có chứa ma túy. C cầm lấy rồi giấu 02 ống hút nhựa vào túi quần soóc bò phía trước bên trái đang mặc và đi xe mô tô về nhà. Tại nhà, C lấy dao tem cắt, lấy từ 02 ống ma túy nói trên một lượng nhỏ ma túy và sử dụng một mình tại nhà. Đến 14 giờ 15 phút ngày 22-6-2019, C cầm theo 02 ống nhựa chứa ma túy cất giấu tại túi quần soóc bò phía trước bên trái đang mặc, điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 15M1-07191 vào trung tâm quận Đ tìm việc làm. Khi tới khu vực tổ dân phố Ng, phường Ng thì bị Công an quận Đồ Sơn bắt giữ cùng tang vật.

Bản Kết luận giám định số 341/KLGĐ (Đ6) ngày 24-6-2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất bột màu trắng của mẫu vật gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1533 gam, là loại Heroine.

Bản Cáo trạng số 18/CT-VKS ngày 04-10-2019 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Đồ Sơn đã truy tố bị cáo Nguyễn Quang C về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Ti phiên toà, Bị cáo C khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân quận Đồ Sơn đã truy tố. Bị cáo thừa nhận khối lượng và loại ma túy đúng như Kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng, vật chứng của vụ án bị Công an quận Đồ Sơn thu giữ đúng như cáo trạng đã nêu. Bị cáo thừa nhận việc bị điều tra, truy tố, xét xử là không oan sai, không bị ép buộc khai báo không đúng sự thật.

Người làm chứng vắng mặt, Kiểm sát viên công bố lời khai phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay.

Đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điêm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo với mức án từ 18 tháng đến 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Không áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy vật chứng của vụ án.

Về án phí, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Cường.

Người bào chữa cho bị cáo: Nhất trí với đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa về tội danh, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như các điểm, khoản, điều luật áp dụng đối với bị cáo mà Viện Kiểm sát đã đề nghị. Tuy nhiên, trước khi quyết định hình phạt, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải thành hai tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51; gia đình bị cáo thuộc hộ cận nghèo, có điều kiện khó khăn là tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Từ những phân tích nêu trên đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất theo mức án mà Kiểm sát viên đã đề nghị.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng của Viện Kiểm sát đã truy tố. Bị cáo biết hành vi phạm tội của mình là sai, là vi phạm pháp luật và rất ăn năn hối hận và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra và Điều tra viên Công an quận Đồ Sơn; Viện Kiểm sát nhân dân quận Đồ Sơn và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Lời khai của bị cáo Nguyễn Quang C tại phiên toà phù hợp với các tài liệu điều tra có trong hồ sơ vụ án. Được chứng minh bằng lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng, biên bản khám xét, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã làm rõ: Hồi 14 giờ 50 phút ngày 22-6-2019, tại tổ dân phố Ng, phường Ng, Công an quận Đồ Sơn bắt quả tang C có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy có khối lượng theo Kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng là 0,1533 gam Heroine.

[3] Bị cáo C là người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện với mục đích sử dụng.

[4] Vì vậy, có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử kết luận, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[5] Viện Kiểm sát nhân dân quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng là có cơ sở và đúng với quy định của pháp luật.

[6] Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, đã xâm phạm chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma tuý, xâm phạm trật tự trị an xã hội, là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Ma túy là chất gây nghiện đặc biệt nguy hiểm, tàn phá sức khỏe của người sử dụng và làm suy giảm giống nòi. Do đó phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, cần thiết áp dụng hình phạt tù có thời hạn và tiếp tục cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

[7] Về quan điểm của người bào chữa: Chấp nhận đề nghị của người bào chữa cho bị cáo được hưởng tình tiết thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải thành hai tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Không chấp nhận đề nghị của người bào chữa áp dụng tình tiết gia đình bị cáo thuộc hộ cận nghèo, có điều kiện khó khăn là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[8] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[9] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan Điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[10] Về nhân thân: Bị cáo có 01 tiền án đã được xóa án tích về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, thể hiện các bị cáo có nhân thân rất xấu, không có ý thức sửa chữa sai lầm, coi thường pháp luật, là đối tượng nghiện ma túy đã nhiều năm nên cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[11] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định và tài sản riêng nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

- Về xử lý vật chứng:

[12] 01 phong bì niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định số 341/2019/PC09 cần tịch thu tiêu hủy theo điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

[13] Đối với chiếc xe mô tô Honda Wave Biển kiểm soát 15M1-071.91 là tài sản của anh Nghiêm Danh Ph, anh Ph không biết bị cáo sử dụng vào việc tàng trữ trái phép chất ma túy nên Cơ quan Điều tra đã trả lại cho anh Phương là có căn cứ.

- Về vấn đề khác:

[14] Đối với Hoàng Văn Kh là người đã bán ma túy cho bị cáo, Cơ quan Công an quận Đồ Sơn đã tiến hành cho đối chất giữa Kh và C; khám xét chỗ ở của Kh tại thôn V, xã Đ, huyện K vào ngày 25-6-2019 nhưng không phát hiện được ma túy. Do đó, Cơ quan Điều tra không xử lý đối với Kh là đúng quy định pháp luật.

[15] Về án phí: Bị cáo là người thuộc hộ cận nghèo nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án.

[16] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điêm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quang C 21 (Hai mươi mốt) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày tạm giữ 22-6-2019.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định số 341/2019/PC09.

(Theo biên bản bàn giao, nhận vật chứng ngày 07-10-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng).

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, Bị cáo C được miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, Bị cáo C có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2019/HS-ST ngày 31/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:17/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Đồ Sơn - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về