Bản án 17/2019/HNGĐ-ST ngày 06/08/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH - TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 17/2019/HNGĐ-ST NGÀY 06/08/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 06 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình - tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 129/2019/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 5 năm 2019 về tranh chấp: Hôn nhân gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 7 năm 2019 và Quyết định hoãn pH tòa số 10/2019/QĐST-HNGĐ ngày 18/7/2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Lê Đức T, sinh năm 1987.

Trú tại: Số nhà 18, ngách 9, ngõ 265, đường T, phố 5, phường Đ, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình.

-Bị đơn: Chị Đinh Thị H, sinh năm 1987.

HKTT: Số nhà 18, ngách 9, ngõ 265, đường T, phố 5, phường Đ, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình.

Địa chỉ: Số nhà 10, đường Đ, phố 2, phường Đ, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình.

 Tại phiên tòa: Có mặt anh T, vắng mặt chị H mặc dù Tòa án đã triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và bản tự khai và tại phiên tòa anh Lê Đức T trình bày:

Anh kết hôn với chị Đinh Thị H được tự do tìm hiểu tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân nhân dân phường Đông Thành, thành phố Ninh Bình ngày 29/10/2014. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được 3 năm thì phát sinh mâu thuẫn do chị Đinh Thị H chơi bời nợ nần nhiều, các chủ nợ thường xuyên đến đòi nợ dẫn đến vợ chồng sảy ra mâu thuẫn. Từ tháng 9/2017 đến nay mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, từ tháng 12/2017 đến nay, vợ chồng sống ly thân. Tháng 12/2018 anh đã làm đơn xin ly hôn tại Tòa án, được Tòa án phân tích anh đã rút đơn về nhưng từ đó đến nay vợ chồng vẫn không cải thiện được tình cảm, chị H vẫn không thay đổi cách sống. Đến nay anh xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, tình cảm của anh đối với chị H không còn anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh ly hôn với chị Đinh Thị H.

Về con chung: Anh với chị H có hai con chung là cháu Lê Phương A sinh ngày 11/8/2015 và cháu Lê Quỳnh A sinh ngày 23/11/2017. Hiện nay cháu Lê Phương A đang ở với anh, cháu Lê Quỳnh A đang ở với chị H. Khi ly hôn anh xin nuôi cháu Lê Phương A còn giao cho chị H nuôi cháu Lê Quỳnh A, không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau. Về tài sản chung, công nợ chung: Anh không đề nghị Tòa án giải quyết.

*Chị Đinh Thị H không có lời khai, không đến Tòa án làm việc và không cung cấp tài liệu chứng cứ gì mặc dù Tòa án triệu tập đến làm việc, tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác hợp lệ.

Phát biểu của Kiểm sát viên:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử đúng trình tự quy định của pháp luật. Đối với các đương sự: Nguyên đơn là anh Lê Đức T nghiêm chỉnh chấp hành còn chị H không chấp hành. Căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Đinh Thị H.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 56, 57, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/UBTVQH ngày 31/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: chấp nhận đơn khởi kiện của anh Lê Đức T, xử cho anh T được ly hôn chị Đinh Thị H. Về con chung: Giao cho anh T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục cháu Lê Phương A còn giao cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục cháu Lê Quỳnh A, không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau. Anh T phải nộp án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi ngH cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại pH tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại pH tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Về quan hệ hôn nhân: Anh Lê Đức T kết hôn với chị Đinh Thị H được tự do tìm hiểu tự nguyện và có đăng ký kết hôn. Đây là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống thời gian đầu hạnh phúc, sau đó sảy ra mâu thuẫn do chị H chơi bời nợ nần dẫn đến chủ nợ thường xuyên đến đòi nợ. Chị H đã ra ngoài thuê nhà ở (biên bản xác minh ngày 25/6/2019 tại Ủy ban nhân dân phường Đông Thành). Vợ chồng anh T, chị H sống ly thân từ tháng 12/2017 đến nay, không ai còn quan tâm đến nhau nữa. Quá trình giải quyết vụ án, chị H không đến Tòa án làm việc, không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng anh T, chị H đã thực sự trầm T, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, căn cứ Điều 56, 57 luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Lê Đức T, xử cho anh T được ly hôn chị Đinh Thị H là phù hợp với quy định của pháp luật.

[2]Về con chung: Anh Lê Đức T và chị Đinh Thị H có hai con chung là cháu Lê Phương A sinh ngày 11/8/2015 và Lê Quỳnh A sinh ngày 23/11/2017. Hiện nay cháu Phương A đang do anh T nuôi dưỡng, còn cháu Quỳnh A đang do chị H nuôi dưỡng. Nguyện vọng của anh T là mỗi người nuôi một cháu, không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau. Hội đồng xét xử xét thấy, yêu cầu của anh T là phù hợp nên cần chấp nhận giao cho anh T tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục cháu Lê Phương Anh; giao cho chị H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục cháu Lê Quỳnh A. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung. Các bên được quyền thăm nom chăm sóc con chung.

[3]Về tài sản chung, công nợ chung: Anh T xác định vợ chồng không có tài sản chung, không vay nợ ai nên không yêu cầu giải quyết do vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[4]Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh T phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời gian luật định.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 57, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147; điểm b, khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1.Chấp nhận đơn khởi kiện của anh Lê Đức T. Xử cho anh Lê Đức T được ly hôn chị Đinh Thị H. Quan hệ hôn nhân giữa anh T, chị H chấm dứt kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung: giao cho anh Lê Đức T trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục cháu Lê Phương A sinh ngày 11/8/2015; giao cho chị Đinh Thị H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục cháu Lê Quỳnh A sinh ngày 23/11/2017. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung. Các bên được quyền thăm nom chăm sóc con chung.

3.Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Lê Đức T phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn được đối trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2018/0001110 ngày 04/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Ninh Bình.

Án xử công khai sơ thẩm, anh T có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, chị H vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a và Điều 9 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2019/HNGĐ-ST ngày 06/08/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:17/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về