Bản án 17/2018/HS-ST ngày 17/07/2018 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG BÚK, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 17/2018/HS-ST NGÀY 17/07/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong ngày 17 tháng 7 năm 2018 tại Hội trường A, trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Búk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 15/2018/TLST-HS ngày 22 tháng 6 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2018/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 7 năm 2018 đối với bị cáo:

Y D AYUN (Tên gọi khác: Y J), sinh năm 1998, tại tỉnh Đắk Lắk. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Buôn S, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hoá (học vấn): 5/12; Dân tộc: Ê đê; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Y Roh H (đã chết) và bà H N Ayun, sinh năm 1981, hiện sinh sống tại: Buôn S, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: không;

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 16/01/2018. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Buôn Hồ. Có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Y D Ayun: Luật sư Lê Xuân Anh – Chi nhánh Công ty luật TNHH MTV T, Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh - có mặt.

- Người bị hại: Anh Y W Niê, sinh năm 2000.

Địa chỉ: Buôn E, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk - có mặt.

- Những người làm chứng:

1. Anh Y K Y Êban, sinh năm 1997 – vắng mặt.

2. Chị H B Êban, sinh năm 1993 - có mặt.

3. Chị H N Êban, sinh năm 1987 - có mặt.

4. Anh Y K Kdoh, sinh năm 2000 - có mặt.

5. Chị H T Niê, sinh năm 1990 - có mặt.

6. Bà H L Niê, sinh năm 1968 - có mặt.

7. Anh Y D Ayun, sinh năm 1970 - có mặt.

8. Anh Y K Ayun, sinh năm 1989 - có mặt.

9. Anh Y H Êban, sinh năm 1989 - có mặt.

10. Anh Y J Niê, sinh năm 1999 - vắng mặt.

Cùng địa chỉ: Buôn E, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

11. Anh Y S A yun, sinh năm 1996 - có mặt.

12. Anh Y S Ayun, sinh năm 2001 - vắng mặt.

Cùng địa chỉ: Buôn S, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.

- Người phiên dịch cho bị cáo, người bị hại, người làm chứng: Ông Y M Niê - Đội trưởng Đội công tác 253 xã C – có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ, ngày 18/4/2017, tại khu vực nhà của ông Y Đ Ayun (Ama T) ở buôn E, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, có Y D Ayun, Y S Ayun, Y J Niê, Y S Ayun và Y K Êban tổ chức uống rượu. Trong quá trình ngồi uống rượu với nhau thì giữa Y J Niê và Y K Êban xảy ra mâu thuẫn với nhau. Y J Niê nói với Y K Êban “Mày là dân quân mà mày đi quậy người ta à, mấy thằng dân quân tụi mày tao chấp, gọi mười thằng lên đây đánh nhau với tao”. Sau khi nghe Y J Niê nói vậy, Y K Êban bực tức đi về và gọi bạn cùng buôn E, xã E gồm: Y K Ayun, Y K Kđoh, Y H Êban và Y W Niê đến nhà ông Y Đ Ayun tìm Y J Niê nói chuyện và gây sự. Khi cả nhóm đi đến nhà ông Y Đ Ayun thì Y K nói to “gọi Y J Niê ra đây nói chuyện”, sau đó, Y J ra nói chuyện với Y K. Lúc này, do sợ hai bên đánh nhau nên Y S Ayun vào can ngăn thì Y J nghĩ là Y S bênh vực Y K nên đã dùng tay đánh Y S. Khi thấy Y S bị đánh thì Y K, Y K, Y H và Y W vào can không cho Y J đánh Y S. Thấy vậy, ông Y Đ tưởng nhóm của Y K đánh Y J vì Y J là con trai của Y Đ nên có cầm 01 cây gậy gỗ dài khoảng 60cm, đường kính khoảng 05cm chạy ra chỗ Y J và nhóm của Y K đang xích mích với nhau, lúc này Y D Ayun đi sau và lấy cây gậy mà ông Y Đ cầm ra tiến lại đánh anh Y W Niê 01 cái trúng vào đầu làm anh Y W ngã xuống đất. Thấy vậy, Y K, Y K, Y H xông vào dùng tay chân đánh Y D, sau đó Y D chạy ra vườn cây điều trốn. Còn anh Y W được gia đình đưa đi cấp cứu tại Bệnh viên Đa khoa thị xã B, tỉnh Đắk Lắk, sau đó chuyển đến Bệnh viện Đa khoa tỉnh Đắk Lắk điều trị.

Trong quá trình điều tra, bị cáo Y D đã khai nhận hành vi phạm tội của mình là dùng cây gậy gỗ dài khoảng 60cm, đường kính khoảng 05cm đánh một cái vào đầu anh Y W gây thương tích.

Vật chứng vụ án: Cái gậy gỗ mà Y D dùng để đánh anh Y W gây thương tích, Cơquan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Búk đã truy tìm nhưng không thu giữ được.

Tại bản kết luận pháp y thương tích số 833/PY-TgT ngày 30/6/2017 của Trung tâm pháp y Sở y tế Đắk Lắk kết luận: anh Y W Niê bị khuyết sọ đơn thuần, tỷ lệ thương tât 30%, vật tác động: cứng, tày.

Tại bản cáo trạng số 16/CT-VKS ngày 21/6/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Búk đã truy tố bị cáo Y D Ayun về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a khoản 1, điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Y D Ayun về tội “Cố ý gây thương tích”, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về hình phạt: Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Y D Ayun từ 03 năm đến 04 năm tù.

- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự, các Điều 584, 585, 586 và 590 Bộ luật Dân sự: Buộc bị cáo bồi thường toàn bộ thiệt hại về chi phí điều trị, các khoản thu nhập bị mất và tiền tổn thất tinh thần cho người bị hại, khấu trừ số tiền 15.000.000 đồng bị cáo và gia đình đã bồi thường trước.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Y D Ayun trình bày quan điểm bào chữa: Đồng ý với luận tội của Kiểm sát viên về tội danh; về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Kiểm sát viên đã không áp dụng hết các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo đó là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội trong trường hợp tinh thần bị kích động mạnh do hành vi vi phạm pháp luật của người bị hại, tại phiên tòa người bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số, học vấn thấp, trình độ hiểu biết pháp luật còn hạn chế. Đề nghị HĐXX xem xét áp dụng điểm b, e, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 65 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất dưới khung hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, bị cáo xin lỗi người bị hại và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Người bị hại anh Y W Niê yêu cầu bị cáo bồi thường về trách nhiệm dân sự tổng số tiền là 43.120.000 đồng, và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Mặc dù không có mâu thuẫn với anh Y W Niê, khi anh Y W đi cùng với Y K Êban đến để nói chuyện với Y J Niê về mâu thuẫn trước đó. Khi nhìn thấy các bên có xảy ra cãi vã, xô xát với nhau bị cáo đã không có hành động can ngăn mà lại lấy cây gậy gỗ do ông Y Đ Ayun đang cầm dùng tay phải đánh một cái từ trên xuống trúng vào đỉnh đầu của anh Y W, hậu quả là anh Y W Niê bị thương tích khuyết sọ đơn thuần, tỷ lệ thương tích là 30%. Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được thẩm tra tại phiên tòa, cũng như kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Đã có đủ cơ sở xác định: Do ý thức coi thường pháp luật, coi thường sức khỏe và tính mạng của người khác, vào khoảng 16 giờ 30 phút, ngày 18/4/2017, tại buôn E, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, Y D Ayun đã có hành vi dùng gậy gỗ dài khoảng 60cm, đường kính khoảng 05cm là hung khí nguy hiểm đánh trúng vào đỉnh đầu anh Y W Niê, gây thương tích 30%.

Như vậy, đã có đủ căn cứ kết luận Quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Búk đối với bị cáo Y D Ayun về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 1, điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Khoản 1 và khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

………………………..

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:

……………………….

đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.”.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử nhận thấy: Khi thực hiện hành vi dùng gậy gỗ đánh vào đầu anh Y W Niê, gây thương tích cho người bị hại, bị cáo là người đã trưởng thành, đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo có đầy đủ khả năng nhận thức và hoàn toàn ý thức được việc gây thương tích cho người khác là sai trái, là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những đã xâm hại trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn làm ảnh hưởng xấu tình hình anh ninh trật tự tại địa phương. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với tính chất và mức độ hành vi mà bị cáo đã gây ra, xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đủ sức răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo để trở thành công dân tốt có ích cho xã hội.

Hành vi mà bị cáo đã thực hiện khi Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 chưa có hiệu lực pháp luật nhưng căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày20/6/2017 của Quốc Hội hướng dẫn thi hành Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 3 Điều 7 BLHS năm 2015 thì được áp dụng các quy định về hình phạt nhẹ hơn và các quy định có lợi cho người phạm tội do Bộ luật hình sự năm 2015 quy định đối với người phạm tội trong đó có tội “Cố ý gây thương tích”. Vì vậy cần vận dụng để xem xét đối với hành vi của bị cáo.

[4]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, trong giai đoạn luận tội Kiểm sát viên không áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS là bất lợi đối với bị cáo. Sau khi phạm tội bị cáo và gia đình đã tự nguyện bồi thường một phần thiệt hại số tiền 15.000.000 đồng, người bị hại có đơn bãi nại và tại phiên tòa xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số, trình độ học vấn thấp, khả năng nhận thức pháp luật còn hạn chế nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 BLHS. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm e khoản 1 Điều 51 BLHS theo quan điểm của người bào chữa cho rằng bị cáo được hưởng là không có cơ sở. Vì người bị hại chỉ tham gia can ngăn không cho Y J Niê đánh Y S Ayun (Y S là anh em họ với bị cáo), người bị hại không có hành vi vi phạm pháp luật đối với bị cáo cũng như người nhà của bị cáo, vì vậy không dẫn đến việc bị cáo bị kích động mạnh về tinh thần.

Do có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng, xem xét tính nguy hiểm của hành vi, xét thấy mức hình phạt của Viện kiểm sát đề nghị là quá nghiêm khắc, HĐXX quyết định hình phạt thấp hơn mức đề nghị đối với bị cáo cũng đủ tính răn đe và phòng ngừa chung.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa anh Y W Niê và bị cáo Y D Ayun thỏa thuận bồi thường thiệt hại tổng số tiền 43.120.000 đồng, bao gồm các khoản sau: tiền thuê xe đi cấp cứu, tái khám 4.000.000đ; tiền viện phí 540.000đ (có hóa đơn); tiền thuốc 1.208.000đ (có hóa đơn); tiền nước uống, bồi dưỡng phục hồi sức khỏe 2.752.000đ; tiền ăn uống khi nằm viện cùng 02 người chăm sóc 360.000đ/3 người/7 ngày 2.520.000đ; tiền công khi nằm viện cùng 02 người chăm sóc 300.000đ/3 người/7 ngày là 2.100.000đ; tiền tổn thất tinh thần 30.000.000đ. Căn cứ Điều 48 BLHS năm 2015, và Ñieàu 585, 586, 590 BLDS năm 2015 và Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao “Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, HĐXX xét thấy việc thỏa thuận bồi thường thiệt hại giữa anh Y W Niê và bị cáo Y D Ayun là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm các điều cấm của pháp luật nên chấp nhận, bị cáo Y D Ayun phải bồi thường toàn bộ thiệt hại với tổng số tiền là 43.120.000đ cho anh Y W, khấu trừ số tiền 15.000.000đ gia đình bị cáo đã bồi thường trước, bị cáo còn phải bồi thường tiếp số tiền 28.120.000 đồng.

[7]. Vê án phí: Gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo theo quy định của Chính phủ nên bị cáo không phải nộp án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Y D NIÊ (Y J) phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng: Điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Y D NIÊ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 16/01/2018.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; các Điều 584, 585, 586 và 590 Bộ luật dân sự năm 2015: Buộc bị cáo Y D Ayun phải bồi thường toàn bộ thiệt hại với tổng số tiền là 43.120.000 đồng cho anh Y W Niê (bao gồm các khoản sau: tiền thuê xe đi cấp cứu, tái khám 4.000.000đ; tiền viện phí 540.000đ (có hóa đơn); tiền thuốc 1.208.000đ (có hóa đơn); tiền nước uống, bồi dưỡng phục hồi sức khỏe 2.752.000đ; tiền ăn uống khi nằm viện cùng 02 người chăm sóc 360.000đ/3 người/7 ngày là 2.520.000đ; tiền công khi nằm viện cùng 02 người chăm sóc 300.000đ/3 người/7 ngày là 2.100.000đ; tiền tổn thất tinh thần 30.000.000đ). Khấu trừ số tiền 15.000.000đ gia đình bị cáo đã bồi thường trước, bị cáo còn phải bồi thường tiếp số tiền 28.120.000 đồng.

Áp dụng khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự để tính lãi suất đối với số tiền chậm thi hành án kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án.

3. Về án phí: Bị cáo không phải nộp án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm.

4. Báo cho bị cáo, người bị hại biết có quyền kháng cáo án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự c ó quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

288
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2018/HS-ST ngày 17/07/2018 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:17/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Búk - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về