Bản án 17/2018/HNGĐ-ST ngày 31/07/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NGÃ BẢY - TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 17/2018/HNGĐ-ST NGÀY 31/07/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 31 tháng 7 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ngã Bảy, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 44/2018/TLST- HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2018 về Tranh chấp ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2018/QĐXX-ST ngày 19 tháng 6 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1973.

Địa chỉ: Khu vực 5, phường H, thị xã N, tỉnh H. (Có mặt).

- Bị đơn: Anh Lương Chí C, sinh năm 1972.

Địa chỉ: Khu vực 5, phường H, thị xã N, tỉnh H. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 16/4/2018 và trong quá trình xét xử nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Lương Chí C tổ chức lễ cưới vào năm 1995, đến năm 2002 đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn P, huyện P, tỉnh C (Nay là Ủy ban nhân dân phường N, thị xã N, tỉnh H). Quá trình chung sống vợ chồng, anh Lương Chí C không chịu làm ăn, không lo lắng cho vợ con dẫn đến vợ chồng thường xuyên cải nhau dẫn đến mâu thuẫn ngày càng gay gắt và sống ly thân không ai quan tâm đến ai. Nay chị Nguyễn Thị H xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với bị đơn anh Lương Chí C.

Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung cháu Lương Chí T, giới tính: Nam, sinh năm: 1995, cháu Lương Huỳnh N, giới tính: Nữ, sinh năm: 1998 hiện đã trưởng thành và cháu Lương Chí Đ, giới tính Nam, sinh ngày: 17/7/2005 hiện nay đang sống chung với nguyên đơn. Sau khi ly hôn nguyên đơn yêu cầu tiếp tục nuôi dưỡng cháu Đ và không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành triệu tập bị đơn anh Lương Chí C nhiều lần Nng vắng mặt, tại phiên tòa hôm nay bị đơn không gửi văn bản ý kiến của mình cho Tòa án và vắng mặt không có lý do nên không có lời trình bày.

Cháu Lương Chí Đ trình bày: Cha cháu là Lương Chí C và mẹ cháu là Nguyễn Thị H, sau khi cha mẹ ly hôn cháu có nguyện vọng sống với mẹ.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân thủ pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm Phán, Thư ký, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Về nội dung đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 51, 56, Điều 81 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn chị Nguyễn Thị H với bị đơn anh Lương Chí C; Về con chung: Giao con chung cho nguyên đơn nuôi dưỡng; Về án phí: Nguyên đơn phải chịu theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng. Đối với bị đơn anh Lương Chí C, Tòa án đã tống Đ hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn, Tòa án đưa vụ án ra xét xử Nng bị đơn vắng mặt nên Tòa án đã Quyết định hoãn phiên tòa và đã tống Đ hợp lệ Quyết định hoãn phiên tòa cho bị đơn Nng tại phiên tòa hôm nay bị đơn vẫn vắng mặt. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị H và bị đơn anh Lương Chí C kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đến cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình theo giấy chứng nhận kết hôn số 226/2002, quyển số 02, ngày 03/02/2002 tại Ủy ban nhân dân thị trấn P, huyện P, tỉnh C (Nay là Ủy ban nhân dân phường phường N, thị xã N, tỉnh H). Trong quá trình chung sống giữa nguyên đơn chị Nguyễn Thị H và bị đơn anh Lương Chí C có phát sinh mâu thuẫn và sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay tự ai nấy sống không còn thương yêu, không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án tiến hành hòa giải để tạo điều kiện hàn gắn Nng bị đơn anh Lương Chí C không đến Tòa án, như vậy vợ chồng không còn tình cảm, mâu thuẫn đã trầm trọng, cuộc sống chung không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không Đ được. Việc nguyên đơn chị Nguyễn Thị H xin ly hôn với bị đơn anh Lương Chí C là có căn cứ, phù hợp với tình trạng hôn nhân của vợ chồng, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn chị Nguyễn Thị H được ly hôn với bị đơn anh Lương Chí C.

[3]. Về con chung: Cháu Lương Chí T, sinh năm: 1995, cháu Lương Huỳnh N, sinh năm: 1998 hiện đã trưởng thành. Chị Nguyễn Thị H có nguyện vọng nuôi dưỡng cháu Lương Chí Đ và cháu Đ có nguyện vọng sống chung với chị H. Để đảm bảo môi trường sống và học tập của cháu Đ Hội đồng xét xử giao cháu Đ cho nguyên đơn chị Nguyễn Thị H tiếp tục nuôi dưỡng cho đến khi cháu Đ đủ 18 (Mười tám) tuổi, bị đơn anh Lương Chí C chưa phải cấp dưỡng nuôi con chung. Dành quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung cho bị đơn anh Lương Chí C không ai được quyền ngăn cản.

[4]. Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án không xem xét.

[5]. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án không xem xét.

[6]. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.

[7]. Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 4 Điều 147, Khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 53 khoản 1 Điều 56, Điều 81 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghi quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho nguyên đơn chị Nguyễn Thị H được ly hôn với bị đơn anh Lương Chí C.

2. Về con chung: Cháu Lương Chí T, sinh năm: 1995, cháu Lương Huỳnh N, sinh năm: 1998 hiện đã trưởng thành. Giao cháu Lương Chí Đ, giới tính Nam, sinh ngày: 17/7/2005 cho nguyên đơn chị Nguyễn Thị H tiếp tục nuôi dưỡng cho đến khi cháu Đ đủ 18 (Mười tám) tuổi, bị đơn chưa phải cấp dưỡng nuôi con chung. Dành quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung cho bị đơn anh Lương Chí C không ai được quyền ngăn cản.

3. Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

4. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

5. Về án phí: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) được khấu trừ 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng

án phí đã nộp theo biên lai thu số 0015063 ngày 16/4/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Ngã Bảy, tỉnh Hậu Giang thành án phí. Nguyên đơn không phải nộp thêm.

Trong trường hợp Bản án, Quyết định của Tòa án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự - thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

6. Nguyên đơn Nguyễn Thị H được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn anh Lương Chí C được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân phường Hiệp Thành./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2018/HNGĐ-ST ngày 31/07/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:17/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ngã Bảy - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về