Bản án 168/2017/HNGĐ-ST ngày 14/12/2017 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH CHƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 168/2017/HNGĐ-ST NGÀY 14/12/2017 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 14 tháng 12 năm 2017 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 136/2017/TLST- HNGĐ ngày 12 tháng 10 năm 2017 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2017/QĐST- HNGĐ ngày 01/12/2017 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị Kiều H, sinh năm: 1983; địa chỉ: Khối X,Thị trấn Y, huyện TC, tỉnh NA. Có mặt.

Bị đơn: Anh Chu Văn T, sinh năm 1983; địa chỉ: Khối X,Thị trấn Y, huyện TC, tỉnh NA. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 20/9/2017, bản tự khai và lời trình bày tại phiên tòa nguyên đơn chị Đỗ Thị Kiều H trình bày như sau: Chị và anh Chu Văn T kết hôn với nhau vào ngày 05/10/2007 do hai bên tìm hiểu tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Thị trấn Y, huyện TC, tỉnh NA. Sau khi kết hôn vợ chồng sống không hạnh phúc, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình hai bên không hợp nhau. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên vợ chồng đã sống ly thân từ đầu tháng 09/2017 cho đến nay. Tình cảm vợ chồng là không còn nữa chị đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Chu Văn T.

Về nuôi con chung: Vợ chồng có hai con chung là Chu Minh H, sinh ngày 09/9/2008 và Chu Minh K, sinh ngày 03/4/2010 hiện nay đang ở với chị.Vợ chồng ly hôn chị H có nguyện vong được nuôi cả hai người con và không yêu cầu anh Chu Văn T phải cấp dưỡng nuôi con.

Về chia tài sản và nợ: Chị Đỗ Thị Kiều H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn anh Chu Văn T sau khi nhận được thông báo thụ lý của Tòa án thì anh đã đến Tòa án làm việc và đã có bản tự khai nêu ý kiến của mình như sau: Anh và chị Đỗ Thị Kiều H kết hôn với nhau vào ngày 05/10/2007 do hai bên tìm hiểu tự nguyện,có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Thị trấn Y, huyện TC, tỉnh NA.Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc, đến ngày 05/8/2017 chị Đỗ Thị Kiều H bỏ về nhà mẹ đẻ không rõ lý do. Nay chị H xin ly hôn, anh T thấy tình cảm vợ chồng đang còn nên anh không đồng ý ly hôn, anh có nguyện vọng vợ chồng về đoàn tụ xây dựng hạnh phúc gia đình.

Về nuôi con chung: Vợ chồng có hai con chung là Chu Minh H, sinh ngày 09/9/2008 và Chu Minh K, sinh ngày 03/4/2010 hiện nay đang ở với chị H, anh T có nguyện vọng cả hai vợ chồng đoàn tụ để nuôi con chung.

Về chia tài sản và nợ: Anh Chu Văn T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong qúa trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật, bị đơn không chấp hành các quy định của pháp luật, không đến Tòa án tham gia phiên họp và hòa giải theo Thông báo và Giấy triệu tập của Tòa án.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điều 28, Điều 35, khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81,82,83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về hôn nhân: Xử cho chị Đỗ Thị Kiều H được ly hôn anh Chu Văn T.

Về nuôi con chung: Giao con chung là Chu Minh H, sinh ngày 09/9/2008 và Chu Minh K, sinh ngày 03/4/2010 cho chị Đỗ Thị Kiều H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh Chu Văn T.

Về chia tài sản và nợ: Chị Đỗ Thị Kiều H, anh Chu Văn T không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

Về án phí: Chị Đỗ Thị Kiều H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Về tố tụng: Đây là vụ án thuộc trường hợp Tòa án không tiến hành hòa giải được vì bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt được quy định tại khoản 1 Điều 207 Bộ luật dân sự. Ngày 28/11/2017 Tòa án đã mở phiên tòa xét xử vụ án nhưng do bị đơn anh Chu Văn T vắng mặt nên Hội đồng xét xử đã hoãn phiên tòa. Sau khi hoãn phiên tòa thì Tòa án đã tống đạt Quyết định hoãn phiên tòa, Giấy triệu tập phiên tòa và Quyết định đưa vụ án ra xét xử hợp lệ cho anh Chu Văn T.Tại phiên tòa hôm nay bị đơn anh Chu Văn T vắng mặt nhưng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai do đó Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn là đúng với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]Về nội dung vụ án: Xét thấy quan hệ hôn nhân giữa chị Đỗ Thị Kiều H và anh Chu Văn T là hợp pháp, được xác lập trên cở sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Thị trấn Y, huyện TC, tỉnh NA vào ngày 05/10/2007. Sau khi kết hôn vợ chồng sống không hạnh phúc, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp,vợ chồng không thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau. Mâu thuẫn trầm trọng nhất là vào ngày 05 tháng 08 năm 2017 và hai bên đã sống ly thân cho đến nay.Chị Đỗ Thị Kiều H cho rằng tình cảm vợ chồng là không còn nữa và đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Chu Văn T. Tại bản tự khai anh Chu Văn T có ý kiến là mong muốn vợ chồng về đoàn tụ để xây dựng hạnh phúc gia đình. Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án triệu tập, Thông báo cho anh Chu Văn T biết để đến Tòa án hòa giải, tham gia phiên tòa nhưng anh T đều vắng mặt không rõ lý do, chứng tỏ anh không có thiện chí trong việc hàn gắn quan hệ tình cảm vợ chồng. Hội đồng xét xử xét thấy về quan hệ hôn nhân giữa chị Đỗ Thị Kiều H và anh Chu Văn T chỉ tồn tại về mặt hình thức, thực chất tình trạng hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được do đó chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đỗ Thị Kiều H, xử cho chị được ly hôn với anh Chu Văn T là phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3]Về nuôi con chung: Vợ chồng có hai con chung là Chu Minh H, sinh ngày 09/9/2008 và Chu Minh K, sinh ngày 03/4/2010. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa chị Đỗ Thị Kiều H có nguyện vọng được nuôi cả hai người con và không yêu cầu anh Chu Văn T cấp dưỡng nuôi con. Ý kiến của con là có nguyện vọng được ở với mẹ. Xét thấy trong các buổi hòa giải và tại phiên tòa anh Chu Văn T đều vắng mặt nên không lấy được ý kiến của anh về việc nuôi con, chị H có đủ điều kiện về mọi mặt để chăm sóc, nuôi dạy con do đó giao con cho chị Đỗ Thị Kiều H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là đảm bảo được quyền lợi mọi mặt của con, đúng với quy định tại các Điều 81;82;83 Luật hôn nhân và gia đình. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh Chu Văn T.

[4]Về chia tài sản và nợ: Chị Đỗ Thị Kiều H và anh Chu Văn T không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[5] Về án phí: Chị Đỗ Thị Kiều H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

 [6] Về ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: Xét thấy ý kiến phát biểu tại phiên tòa của đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng và việc đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng pháp luật để giải quyết nội dung vụ án là có căn cứ, đúng pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án xử:

Về hôn nhân: Cho chị Đỗ Thị Kiều H được ly hôn anh Chu Văn T.

Về nuôi con chung: Giao con chung là Chu Minh H, sinh ngày 09/9/2008 và Chu Minh K, sinh ngày 03/4/2010 cho chị Đỗ Thị Kiều H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh Chu Văn T.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Về án phí: Chị Đỗ Thị Kiều H phải chịu 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0001161 ngày 12/10/2017 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 168/2017/HNGĐ-ST ngày 14/12/2017 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:168/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Chương - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về